Thư viện Việt Nam – một cái nhìn thẳng
Tôi còn nhớ tại một hội thảo vào năm 2003 có chủ đề “Hiện đại hóa thư viện” tại TP. Huế, TS. Sharon H. White – Phó Tổng lãnh sự quán Hoa kỳ tại TP.HCM khai mạc hội thảo bằng một câu hỏi “Thư viện là gì ?”. Không biết người Mỹ đã nghĩ sao về hệ thống thư viện tại Việt Nam khi lại chào mừng hội thảo bằng một câu hỏi giản đơn như vậy ?
Câu hỏi có vẻ ngây ngô, nhưng rõ ràng có lý lẽ xác đáng của nó. Chỗ đứng của thư viện trong đời sống xã hội đã có hay không ? Có nhiều lý do để công chúng ít nhiều xao lãng về sự hiện hữu của thư viện tại các thành phố, các địa phương, vì sách vở ít, lạc hậu, vì khó khăn tiếp cận,… và cả vì sinh tồn. Thế nhưng, ngay cả những người có học vị và quan chức vẫn còn mơ hồ về giá trị của thư viện. Khi tôi hỏi một vị là tiến sĩ ngành khoa học xã hội và nhân văn về địa chỉ của Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM, ông ta nói ông không biết. Những năm Việt Nam còn là đất thuộc địa, ở các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, người Pháp đã dành những khoảnh đất đẹp nhất để xây dựng các thư viện. Qua gần trăm năm sau, những thư viện như vậy vẫn còn đẹp. Nhưng giờ đây lại đứng trước nguy cơ thay thế bằng các cao ốc hay siêu thị để sinh lợi… Tại Đà Nẵng, người ta đã từng định bán đất Thư viện Tổng hợp khiến các tầng lớp xã hội phản ứng quyết liệt… Điều này phản ánh một nhận thức rất đỗi hời hợt về giá trị của thư viện, của sách vở nói riêng và của tri thức nói chung trong những nhà quản lý. Vì thế câu hỏi của người Mỹ đặt ra: “Thư viện là gì?” tại một hội thảo gồm các chuyên gia ngành thư viện không phải là chuyện khôi hài ?
Tại Việt Nam, trong quá trình phát triển, hệ thống thư viện được xây dựng và khai thác sử dụng ban đầu chỉ diễn ra ở cấp trung ương, tỉnh-thành, sau phát triển đến cấp quận-huyện-thị trấn. Ở khu vực giáo dục, từ rất lâu các trường đại học, cao đẳng và sau này là các trường trung học đều có tổ chức thư viện tại mỗi cơ sở đào tạo… Sau này có thêm rất nhiều các thư viện của các bộ, ngành, cơ quan,… Mạng lưới thư viện của Việt Nam rộng khắp, có mật độ dày. Nhưng hệ thống ấy, đặc biệt trong từng thư viện sẽ thấy chúng rất thiếu sức sống.
Hạn chế lớn nhất của ngành thư viện là gì ? Đấy là câu hỏi chúng tôi đặt ra cho nhiều người quan tâm đến chuyện sách vở. Sau nhiều phút ngập ngừng, và cả việc nêu rất nhiều hạn chế trước, ThS. Hoàng Ngọc Hùng, Trưởng thư viện Đại học Sư phạm Đà Nẵng trả lời: “Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, chúng ta làm được rất nhiều, nhưng vẫn còn thiếu rất nhiều các văn bản pháp quy về tổ chức và hoạt động trong ngành thư viện, các chính sách, quy định về tài sản, về nhân lực,… vì thế rất khó để các thư viện triển khai và thực hiện tốt vai trò của mình”. Có người cho rằng, sách vở thiếu và lạc hậu, phương tiện tra cứu và tiếp cận khó khăn. Có người cho rằng ngân sách rót cho thư viện quá ít, nên công tác tổ chức hoạt động và phát triển khó hiệu quả. Có người đổ lỗi cho văn hóa đọc xuống cấp, các phương tiện giải trí khác phát triển mạnh, mạng internet bùng nổ khiến thư viện theo đó xuống dốc…
Thư viện ở một khía cạnh nào đó được xem là hàn thử biểu của đời sống trí thức một xã hội. Vì thế nhìn sự hiu hắt tại các không gian thư viện thật đáng buồn rầu. Ngay ở các trường ĐH, CĐ, thư viện cũng lâm vào tình cảnh “bước tới đèo Ngang” như vậy. Có nhiều nguyên nhân: sinh viên nghe giảng nhiều hơn tự học, sinh viên ít có thời gian đến thư viện, sinh viên không được yêu cầu hay bắt buộc phải tham khảo tài liệu bằng tiếng nước ngoài, và người thầy không chịu thay đổi cách dạy, cách đánh giá kết quả học tập của sinh viên để từ đó sinh viên phải thay đổi cách học chủ động tích cực. Nhìn ngược lại, một phần là do thư viện nghèo nàn, thiếu thốn sách báo, cung cách quản lý ít tôn trọng bạn đọc khiến sinh viên xa rời thư viện. Đó là cái vòng lẩn quẩn của sự phát triển theo kiểu lập luận đèn cù “cái trứng và gà con” ?!
Theo các chuyên gia, sự nghiệp thư viện Việt Nam có một lợi thế khá lớn là được hưởng sự đầu tư hầu như trọn vẹn của nhà nước từ chiến lược, mục tiêu, nội dung và phương thức, đến con người và tổ chức, về tài chính và cơ sở vật chất… Tuy nhiên, điểm mạnh ấy cũng nảy sinh ra điểm yếu cơ bản: cơ chế bao cấp “mãn tính” làm thui chột tính năng động sáng tạo, từ đấy đưa đến những tồn tại lớn cho sự nghiệp thư viện Việt Nam hiện nay: bị cô lập khá lâu với môi trường thư viện toàn cầu, khả năng thích nghi và thích ứng thấp trong một thế giới đang chuyển động mạnh mẽ, sự thiếu thốn và lạc hậu về công nghệ, sự bất cập trong việc đào tạo và sử dụng đội ngũ nhân sự ngành thư viện…
Song theo chúng tôi, hạn chế lớn nhất vẫn là khả năng tương tác với công chúng. Nghĩa là khả năng tiếp cận đời sống còn rất yếu, yếu cả ở hai phương diện: tiếp cận tài nguyên thông tin khổng lồ để thành tài nguyên thư viện; và tiếp cận công chúng để đưa tài nguyên thông tin thành tri thức cá nhân trong cộng đồng.
Thư viện Việt Nam trong dòng chảy đương đại
TS. Sharon H. White khẳng định: “Tiếp cận thông tin là thiết yếu để cho con trẻ chúng ta lớn lên và phát triển đến mức tiềm năng cao nhất của chúng. Tiếp cận thông tin làm con người mạnh mẽ và quốc gia giàu mạnh hơn. Thư viện nên được biến thành trái tim của trường học, của cơ quan và cộng đồng. Thư viện nên trở thành một nơi mà con người cảm thấy mình được chào đón, một địa chỉ mọi người muốn tìm đến viếng thăm. Thư viện là nơi người ta dựa vào khi họ muốn có thông tin về bất cứ điều gì, đối với bất cứ lý do gì. Thư viện nên có đủ mọi nguồn tài nguyên, ý tưởng và quan điểm.”
Vai trò của thư viện truyền thống với tài nguyên ấn phẩm được xem như là nơi lưu giữ kinh nghiệm tiền nhân, tri thức quá khứ, vì thế nó giữ vai trò như là nơi mở mang trí tuệ, giải phóng tinh thần. Nơi ấy, sách vở sẽ giúp con người vượt ra ngoài giới hạn của bản thân mình, để học hỏi nhiều hơn, hiểu biết nhiều hơn về thế giới xung quanh ta, về những người khác, về những nền văn hóa khác…
Thế nhưng, thư viện có nên là một ốc đảo chỉ với các ấn phẩm hay không ? Ngày nay, công nghệ thông tin, mạng lưới internet đã làm biến đổi mạnh mẽ thế giới chúng ta. Công nghệ thông tin có phải là một đối thủ cạnh tranh hay không ? Hoàn toàn không, nó lại là một đối tác, thậm chí là một đối tác chiến lược tin cậy để đi tới mục tiêu tiếp cận và tổ chức thông tin cho con người ? Thư viện hiện đại vì thế là con đường dẫn đến tương lai. Nhân viên thư viện vì thế thực hiện vai trò điều phối giữa một bên là dòng thác thông tin tăng trưởng nhanh chóng và một bên là nhu cầu thông tin của xã hội ngày càng bức thiết và khắt khe. Tiếp cận thông tin trong khu rừng internet thì thư viện cần phải tổ chức để thông tin dễ dàng được tìm thấy, mặt khác cũng đòi hỏi việc tổ chức này không hạn chế sự tiếp cận mà càng làm tăng nguồn tài nguyên thông tin. Thư viện không còn là nơi chốn đơn độc cho người đọc lữ hành qua duy nhất một cánh rừng, đấy là cả một hệ thống “lâm sinh” liên thông giữa các thư viện, giữa các khối trí thức. Thư viện là nơi thông tin được tổ chức, nơi dễ dàng tìm thấy thông tin, và nó chỉ có giá trị khi nó có thông tin và có người biến thông tin trở nên hữu ích.
Để được như vậy, thư viện cần thay đổi nhận thức trong tiếp cận công chúng. Tại Thụy Điển, Peter Thuvander, một nhà thiết kế và kiến trúc sư đã xây dựng dự án thư viện trên ô tô buýt (Library Bus Project) để mở rộng dịch vụ cho mượn sách, tìm thông tin qua mạng… Tại Philippin, người ta thực hiện một dự án có tên rất hay là Giấc mơ trẻ em ở Mindanaoan. Tại đây, họ chú ý đến ý tưởng xây dựng các chương trình phát triển bạn đọc thư viện, biến các thư viện thành các không gian học tập. Dự án Giấc mơ trẻ em vì thế đã làm nhiều hơn là việc phân phối các tài liệu giáo dục, tri thức mà còn nâng cao năng lực công chúng và các nhà quản lý địa phương, sâu hơn là thực hiện dân chủ hóa việc đọc sách, thực thi quyền được tiếp cận thông tin của con người.
Các văn bản quốc tế đều khẳng đinh: Kiến thức thông tin là một trong những công cụ để phát triển con người và quyền tự do ngôn luận. Xã hội hiện đại trong bối cảnh “thế giới phẳng” đã sinh ra một quyền làm chủ mới với những kiến thức mới nổi bật, trở thành những điều kiện bổ trợ tiên quyết cho các thế hệ con người ngày nay để mối cá nhân có thể tự chèo lái một cách tự tin trong môi trường thông tin.
Thư viện là một thiết chế văn hóa, giáo dục, góp phần đắc lực trong việc nâng cao dân trí, giải phóng nội lực cá nhân, xây dựng tinh thần dân chủ trong một xã hội, là nơi thực thi quyền tiếp cận thông tin. Bởi vậy, nhìn từ bên ngoài, thư viện Việt Nam thiếu hẳn một triết lý hành động tổ chức và hoạt động.
Nhà nước và các đơn vị quản lý nhà nước liên quan đến thư viện đã rất cố gắng mở rộng phạm vi ảnh hưởng và tiếp cận công chúng, độc giả. Song dường như đấy là công tác chính trị, tư tưởng, và cách làm theo kiểu “ấn xuống”, áp đặt cho bạn đọc, làm theo số lượng, hình thức hơn là chất lượng, nội dung. Ngành thư viện có bao giờ để tâm để hiểu thấu đáo về cộng đồng độc giả. Vì họ chưa quan tâm đến nhu cầu, thói quen của độc giả bằng cách làm các khảo sát, thống kê xã hội học để thu thập ý kiến của độc giả, theo từng thời điểm nhất định, ở một nhóm xã hội, một khu vực, hay một lĩnh vực,… cụ thể. Trong khi công việc này được các nước rất quan tâm thực hiện. Ở đấy, họ hiểu bạn đọc như là khách hàng. Vì bạn đọc, họ dễ tính đến mức một số thư viện còn có các phòng dành riêng cho người hút thuốc, các câu lạc bộ nam nữ và cả các trò chơi điện tử… Việc gia hạn mượn trả sách của thư viện được thực hiện qua điện thoại, tài nguyên thông tin được trao đổi qua email, chat. Chuyện này được các nước thực hiện trên một thập kỷ. Nhiều thư viện đã cố gắng làm cho các phòng đọc trở nên ấm cúng và vui vẻ, đó là nơi giao lưu giữa trí thức và con người, giữa các luồng thông tin quá khứ và tương lai.
Tại Việt Nam, sau Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 6/8/2002 về việc xã hội hóa hoạt động thư viện, ở nhiều địa phương như Hà Tây, Hải Dương, Bình Định, Bến Tre, Tiền Giang, Bà Rịa-Vũng Tàu, An Giang, Tây Ninh đã ra đời rất nhiều mô hình thư viện cộng đồng: phòng đọc sách, bưu điện văn hóa xã, tủ sách pháp luật, tủ sách biên phòng… Nhân dân, các tổ chức xã hội, các cơ sở tôn giáo, các cá nhân hảo tâm đã chuyển động theo nhu cầu của đời sống để làm nên rất nhiều thư viện cá nhân rất hữu ích như: thư viện gia đình Trương Văn Huyên ở Tiền Giang, thư viện Đặng – Huỳnh ở Bến Tre, thư viện Tâm Thành ở Hải Dương, thư viện xã Phước Hải ở Bà Rịa-Vũng Tàu,… Điều này khẳng định nhu cầu đọc của nhân dân rất lớn, và gián tiếp xác nhận rằng phương pháp tiếp cận cộng đồng đáp ứng đúng chỗ, đúng nhu cầu thì thư viện sẽ rất có ý nghĩa, ngược lại cũng cho thấy nguy cơ thoái hóa do thiếu khả năng tiếp cận bạn đọc của hệ thống thư viện công cộng nhà nước…
Trên một blog, một học trò tâm sự: “Mong sao chúng tôi sớm có một thư viện luôn tràn ngập ánh sáng, luôn mở rộng cửa đón học sinh với nhiều thân thiện và gần gũi”. Còn tôi lại vẫn lại đặt ra những câu hỏi: Thư viện là gì ? Bao giờ nguồn ánh sáng thiên khải của trí thức sẽ tỏa rạng và gần gũi hơn đến với bạn đọc đây ?
LÊ QUANG ĐỨC
(lequangduc@gmail.com)
(Đã đăng trên báo Thanh niên Thể thao & Giải trí, các số 103 (408), ra ngày Thứ Nam 22/04/2010 (9 tháng 3 Canh Dần); đăng lại trên Thanh Niên online: http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/201017/20100422083134.aspx; số 104 (409), ra ngày Thứ Sáu 23/04/2010 (10 tháng 3 Canh Dần); đăng lại trên Thanh Niên online: http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/201017/20100423082431.aspx ; tạp chí Văn hóa Quảng Nam, số 81, ra tháng 5&6 năm 2010)
Ta vẫn thỉnh thoảng ra nhà Q3 em à, gần cơ quan em đó. Dạo này ta thường ở Q11 hơn. Ngày nghỉ em vô chơi nha.