Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Hai, 2010


Phan Khôi và Tản Đà khác nhau ở tính cách. Câu chuyện nhỏ này thể hiện rất rõ tính cách của một người Quảng thẳng băng trực tính và một người xứ Bắc luôn khôn ngoan đúng lễ với đời. Đó là lần hai ông rủ nhau đi phác xia, xong việc, lại gặp một quan Tây đến gây sự lôi thôi, Phan Khôi thì định dùng nắm đấm để giải quyết tức thì chuyện này, nhưng Tản Đà can ngăn và khuyên Phan Khôi không nên có cái cử chỉ “võ phu”. Phan Khôi thì cứ “nhất quán’ theo kiểu đã đi phác xia thì còn giữ sự “đạo đức” làm gì. Tản Đà thì ngược lại, vừa đi phác xia mà vẫn giữ sự “phải nhẽ” !

Thế đấy mà Phan Khôi và Tản Đà vẫn là những người bạn văn, bạn rượu với nhau. Phan Khôi hân hạnh được gặp Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu từ năm 1918 tại một gác xép ở phố Hàng Bông, ngụ sở của cụ nghè Nguyễn Bá Trác [1]. Lúc ấy Tản Đà trong mắt Phan Khôi là “tay đại tài” còn hơn cả Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, vì theo Phan Khôi hai bậc thức giả này “chỉ viết theo sách, theo tư tưởng của Tây”, chứ Tản Đà thì lại viết ra “tư tưởng của mình”, chính đó “mới là tay sáng tạo”. Gặp nhau vài lần nữa, rồi thưa thớt cách nhau hai năm khi Phan Khôi đi Sài Gòn, sau gặp lại nhiều lần bên chén rượu khề khà có khi qua rạng sáng mai, hai người trở nên thân thiết, tâm đầu hiệp ý.

Hai cụ sau này còn gần gũi nhau trong việc làm báo. Khi Tản Đà làm chủ bút tờ Hữu Thanh, Phan Khôi có đôi lần viết bài cộng tác.

Nhưng việc lớn nhất trong câu chuyện hai ông mà người ta gọi là vụ án Tản Đà – Phan Khôi là cuộc tranh biện nảy lửa giữa hai ông. Câu chuyện bắt đầu vào năm 1931, nhân đọc cuốn “Cay đắng mùi đời” của Hồ Biểu Chánh, Phan Khôi đã viết một bài đại luận công kích cái cười khả ố, bần tiện, tàn nhẫn của người Việt Nam. Bài báo có nhan đề “Cái cười của con Rồng cháu Tiên” đăng trên Phụ nữ tân văn số 84 ra ngày 28 tháng 3 năm 1931. Đến tháng 8 cùng năm, Phan Khôi tiếp tục lại phê phán phong tục thủ tiết của người Việt Nam mà ông cho là man rợ (Tống Nho với phụ nữ).  

Thế là trong số 26 An Nam tạp chí ra ngày 23 tháng 1 năm 1932, Tản Đà khai chiến bằng một báo viết với tiêu đề rất “báo chí”: “Một cái tai nạn lưu hành ở Nam Kỳ: Phan Khôi”. Đã định danh như vậy, trong bài viết, Tản Đà còn cho là “ông Khôi phun giải phóng, phun tự do”, “chiều theo tâm trí của phần nhiều phụ nữ” để bán báo. Và nhân danh “anh em sĩ phu… Hán học”, Tản Đà tuyên bố với công luận sẽ “tra xét tường xác”. Quả nhiên sau đó, liên tục trên 03 số báo An Nam tạp chí: 29 (ra ngày 20-2), 34 (ra ngày 26-4) và 37 (ra ngày 16-4), ông tự lập tòa án, dựa vào mấy chữ “con Rồng cháu Tiên” trong bài báo Phan Khôi để kết tội “xử trảm” cụ Phan vì đã nhục mạ tổ tiên (“vu hãm tiền hiền”).

Bấy giờ, với tinh thần canh tân, tiến bộ, Phan Khôi đã lên án cái cổ hũ, giáo điều, lạc hậu của tư tưởng Khổng – Mạnh. Phan Khôi viết rất đanh thép: “Cái luật cấm cải giá là rất bất công, vô đạo, cướp mất quyền lợi đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hóa, nên phế trừ đi là phải”. Nhưng với Tản Đà thì khác. Dù ông được xem là nhà thơ đầu tiên đã dám thành thật để những rung động của tiếng lòng thầm thĩ trong con người bày biện ra trong thơ, nhưng ở đây, Tản Đà cho Phan Khôi nói vậy là “loạn ngôn hoặc chúng”, làm bại hoại phong hóa. Và đã long trọng tuyên bản án Phan Khôi là kẻ có 3 tội danh, phải chịu hình phạt 300 roi và đưa đi xử ở 3 nơi… rất cụ thể ! Cơ sở để Tản Đà luận tội cũng rất thi sĩ là “chiếu theo hình luật Á Đông từ đời vua Thuấn” (?) Có lẽ vì vậy mà sau đó bản án không thấy ai thi hành !?

Ngược lại, cụ Phan Khôi rất bình tĩnh, vì cụ hiểu “Tản Đà là người thông minh, có thiên tài, nhưng không chịu học” (…) “thấy đời không được rõ”, nên ông “nhịn thua” và “chẳng hề cãi lại nửa lời”.

Nhưng cụ vẫn tiếp tục truyền thống duy tân, ngay vào ngày 10 tháng 3 năm ấy, Phan Khôi trình làng bài thơ “Tình già” trên Phụ nữ tân văn số 122. Bài thơ như một quả bom phá bỏ con đập thơ cũ để cho dòng thác thơ Mới sau đó ào ạt tuôn chảy về tương lai. Và từ đấy, số phận của thi sĩ Tản Đà, một trong những đại diện xướng danh của phái thơ cũ cũng bắt đầu lênh đênh theo con nước rã rời cho đến 1939.

Điều đáng nói ở chỗ là dù giữa Phan Khôi và Tản Đà có những gay cấn ngặt nghèo như vậy nhưng Phan Khôi vẫn luôn thấy cụ và Tản Đà là “một đôi bạn đồng tâm”, là những con người phong nhã, hào hoa, đặc biệt là chung ý chí “đại trượng phu”.

Năm nay là năm tròn 80 năm Tản Đà “về trời”, và cũng là 60 năm Phan Khôi xa rời trần thế, nhắc chuyện tâm giao của hai con người nổi bật của văn giới đầu thế kỷ XX để thấy sự hành xử rất “văn” của hai người: họ gần gũi, kính trọng lẫn nhau như bậc “đại trượng phu”, nhưng vì văn đạo họ cũng sẵn sàng quyết liệt tranh biện đến mức đưa nhau ra “xử trảm”… Đời và Đạo thật phân minh rõ ràng ! Bởi vậy mới thấy câu nói của G.L. Buffon nói rất đúng: Le style est l’homme même (Văn cách, ấy là nhân cách). Nhưng đấy là của cổ nhân ?

Saigon, tháng 1/2009


[1] Tác giả bài thơ Hồ trường nổi tiếng, người cùng quê với cụ Phan Khôi.

Read Full Post »


Bao nhiêu thế hệ đã đọc Kiều. Và họ đã quên Vân. Không những thế, họ không thèm chịu khó suy nghĩ về Vân để rồi xem nàng như một kẻ vô tâm may mắn. Bởi hai lần nàng lỗi lầm. Một là lúc nàng trách cứ khi chị Kiều khóc trước nấm mộ đầy ám ảnh của Đạm Tiên:

Vân rằng chị cũng nực cười
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa

Lần hai nàng ngủ một cách say sưa trong đêm gia đình họ Vương tan nát và ngày mai người chị của mình phải bắt đầu một cuộc đời cay nghiệt dưới cõi hồng trần. Từ đó người ta vội vã hiểu cả cuộc đời nàng trong những lỗi lầm ngây thơ trẻ dại ở cái tuổi ăn no ngủ kỹ. Và quên luôn nàng một cách vô tâm.

Điều đó có vẻ trở nên xác đáng khi người đọc quen ngước nhìn theo những định lệ tri thức có sẵn của người nghiên cứu đi trước, khi nhìn về Thuý Vân. Nhưng không, lòng yêu thương không hề gian dối. Từ trong sâu thẳm, ta có thể nào quên Vân, vì nàng cũng là một kiếp người, mà biết đâu nàng là một hiện diện của đời sống hằng thường, một loài hoa đồng cỏ nội có mặt khắp cánh rừng Đời mênh mông chi xứ. Còn Thuý Kiều lại như là một kỳ hoa dị thảo. Thử hỏi có bao nhiêu Kiều trong đời cho ta để mắt yêu thương ? Và có bao nhiêu là Vân trong đời để ta hờ hững ?

Khéo thay những yêu thương đôi khi vẫn lầm lẫn ! Qua bao là nhiêu khê, Kiều đã được sống giữa đời với niềm hạnh phúc được sẻ chia, đồng cảm của nhiều số phận, nhiều thế hệ. Nhưng nàng Vân, như một kiếp hoa dại vẫn cô đơn và bị lãng quên.

Vâng, Vân đã sống gần như trong sa mạc lãng quên và không được chia sẻ thấu hiểu của một ai.

Trớ trêu thay của quả kiếp nhân duyên, nàng là em của Thuý Kiều, và vì thế, nàng đã phải là vợ của Kim Trọng. Trong đêm trao duyên, Thuý Vân đã “ân cần hỏi han” và tỏ ra là người hiểu Kiều “một nhà để chị riêng oan một mình”, “nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây”. Và Thuý Kiều đã bày tỏ hết lòng mình một cách khôn ngoan để nhờ Thuý Vân “xót tình máu mủ, thay lời nước non”. Kiều đã nói liên tục và hình như chẳng muốn cho Vân được nói để đến khi “cạn lời hồn ngất máu say”. Sau đó với cả nhà, Vân ngơ ngác không đưa đón, đem thẳng bảo vật tình yêu của chị định nói thì Kiều đã ngắt lời trong nức nở đứt đoạn:

Này cha lầm lỗi duyên này
Thôi thì việc ấy sau này đã em…

Lỗi tơ tóc với chàng Kim giờ đây buộc Vân chia sẻ. Sau này trong đời lưu lạc, nhiều lần Kiều đã nhớ em, nhưng nhớ em trong nỗi băn khoăn về duyên nợ ân tình ngày nào chưa trả được với người yêu của mình. Cả nhà họ Vương cũng thế, họ chỉ nghĩ đến Vân như một người trả nợ duyên cho Kiều không hơn không kém:

Trót lời nặng với lang quân
Mượn con em nó, Thúy Vân thay lời
Gọi là trả chút nghĩa người
Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên

Có nhẫn tâm không khi “mượn” cả cuộc đời “ngày xuân em hãy còn dài” của Vân để xe dây một cách khập khiễng cho chàng Kim. Có ai đã nghĩ thế không ?

Sau này nàng Vân cũng mãi là kẻ làm bổn phận. Chuyện hôn nhân với Kim Trọng là “chuyện cửa nhà”, là “thừa gia”:

– Cửa nhà dù tính về sau
Thì là em đó lọ cầu chị đây…

– Thừa gia chẳng hết nàng Vân
Một cây cù mộc, một sân quế hòe

Thế là trong khoảng “trăm năm trong cõi người ta” ngắn ngủi, Thuý Vân hiện diện giữa đời thực với sự cam chịu, lặng lẽ.

Khi những nét bút vẽ nên “khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” và duyên Tấn Tần đầy yêu thương của người chị Kiều trao cho, người ta tin rằng cuộc đời nàng Vân mới may mắn làm sao. Và con người vốn trót yêu thương những tài hoa vô giá nên chẳng để ý kỹ rằng, đằng sau Kiều mười lăm năm lưu lạc má hồng tàn phai khổ đau và hi sinh vô lượng vì cha mẹ, một người em cũng lặng lẽ tạ ơn đời bằng một sự hi sinh chiếc bóng không lời. Nàng Vân tiếp kiến cuộc tình của chị, dù biết rằng kẻ tri âm suốt đời kiếm tìm của chồng là người chị Kiều yêu quý của mình:

Có khi vắng vẻ thư phòng
Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa
Dường như bên nóc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng

Và mặc nhiên cứ thế, nàng trở nên một tha nhân tù tội trong chiếu chăn hạnh phúc với người chồng bất đắc dĩ. Và người đọc từ xưa có nhìn thấy đâu những giọt nước mắt chảy vào trong che giấu ưu phiền của cỏ dại (!?).

Có ai thấu hiểu trong căn nhà ấy, Vân đã từng chiêm bao thấy Kiều để “tỉnh ra mới rỉ tai chàng”. Và chính thế nên ở màn đoàn viên tái hợp dở khóc dở cười của tạo hóa, một nàng Vân đau khổ tột cùng mới được phô bày đầy đủ. Trong hình hài “tàng tàng chén cúc dở say”, một nàngVân “vô tâm” ngày nào tan biến để nhường chỗ cho những lời rành mạch về “tác hợp cơ trời”, về “những là rày ước mai ao” trong tâm tưởng người chồng hờ, và cả nỗi trớ trêu “vậy đem duyên chị buộc vào duyên em”. Lạ thay lúc này chính là lúc nàng nói nhiều nhất trong đời, nói như một giải thoát nội tâm. Bởi lẽ chắc nàng hiểu nên nàng là người đầu tiên gợi mở về một hạnh phúc tái sinh cho Kim Trọng. Có thể người ta vẫn hiểu là lúc này Vân lại tỏ ra “vô duyên” (!). Nhưng không, hơn ai hết nàng “từng trải” để thấu hiểu. Và nàng nói trong một giọng điệu cay đắng xót xa, đầy mai mỉa:

Bây giờ gương vỡ lại lành
Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi
Còn duyên may lại còn người
Còn vầng trăng bạc, còn lời nguyền xưa…

Chàng Kim và chị Kiều vẫn “còn” rất nhiều, rất kịp. Còn nàng thì sao nàng không nói (?!).

Thế mới biết những dâu bể đa đoan của đất trời không chỉ “tương đố” với tài hoa mà cả với những cuộc đời bình thường cũng bị nó phiền luỵ tất.

Với nàng Thuý Vân, một lần nữa người cha già thi ca trên núi Ngàn Hống đã hoàn mỹ trong lẽ yêu thương sâu thẳm con người. Người đã không bỏ rơi con người tuyệt sắc đã đành, nhưng người cũng chẳng lãng quên những hoa đồng cỏ nội thường tình.

Và có nên chăng khi một thời ta đã minh oan cho Thuý Kiều, và lần này ta lại minh oan cho Thuý Vân ? Còn bao nhiêu hoa tàn cỏ dại nữa trong đời ta chưa biết ? Hẳn rằng lòng yêu thương mãi mãi vẫn còn đi lại trên mặt đất nhân thế, không chỉ bày biện minh oan cho những đồng cảm mà còn dâng hiến và hi sinh cho đời, cho người !

(Đăng trên tạp chí Đất Quảng, số ra tháng 6/1994)

Read Full Post »


Đời chung tiền kiếp lộn quầng

Chiếu chăn chật chội áo quần chiêm bao

Chắt chiu khóc giữa sa mù

Bến yêu khê nẹt một màu phong rêu

Hai tay hứng tử lèo ngoèo.

Nghe phiêu dạt biển, rong rêu áo đời

Mưa nguồn rớt hột mù rơi

Trăng tình cưỡng gió, thác lời vạn hoa

Kinh sông lưới trải ngã ba

Đò yêu thác chết qua loa mặc phiền

Một đêm giữa xứ thiêng liêng

Gặp trăng nghiêng ngửa, gặp miền thi ca

Đành rằng sống đã rồi già

Đành rằng hai mắt khóc ta một mình

Đành rằng tình tỉnh tình tinh…

Kinh Mật tông vẫn nguyên trinh tâm đời.

Vì dù tàn cuộc rong chơi

Thơ ngồi hét tiếng trời ơi trong làng

Trót tha chiếc kiếp đa đoan,

Thì thôi ngậm nghĩ đa mang Mưa nguồn !

———-

(*) Mưa nguồn là tên tập thơ của Bùi Giáng.

Read Full Post »


Ngày xưa, khi còn là một cậu bé nhà quê, tôi rất thích lên thành phố, tôi thích cái sự sáng choang, kềnh càng của phố thị. Thế nhưng đến lúc này, không biết sao tôi không còn một chút gì của niềm háo hức ấy nữa, có lẽ do tôi đã lội qua hầu hết các thành phố của đất nước… Giờ đây tôi lại yêu những cái gì giản dị, nhỏ xinh, nhà quê… Bởi vậy mà vào ngày cuối của tháng đầu năm 2008, khi nghe Hội An lên thành phố, tôi lại đâm ra buồn, một nỗi buồn không tên khó cắt nghĩa. Bởi vậy tôi đến Hà Tiên lần này mà trong lòng như kiểu tìm về. Chắc Hà Tiên vẫn còn là thị xã ?

Lòng hiếu cổ khiến khi đến Hà Tiên, tôi đã cố mường tượng ra trên nền đất phủ Sài Mạt (Bantay Meas) còn lại những gì qua gần 4 thế kỷ chiến tranh liên miên đã tận phá hết thảy. Tôi cố tìm kiếm những nét vương vất của “tiểu quốc” họ Mạc tại đất Hà Tiên, một điểm tựa vững chắc của người Việt ở phương nam. Để từ tiền đồn này, cư dân Việt đẩy mạnh cuộc “bắc tiến” ra hướng sông Tiền, cùng với cuộc nam tiến từ Biên Hòa, Đồng Nai trở vô, hoàn tất nhanh chóng công cuộc chinh phục vùng châu thổ sông Cửu Long chỉ trong khoảng 50 năm. Đó là cuộc mở mang bờ cõi quan trọng và nhanh nhất trong lịch sử “Nam tiến” của dân tộc Việt Nam.

Những gì thuộc về di sản vật thể như trấn thành Hà Tiên, cung điện Phương Thành, đồn lũy Giang Thành và đặc biệt phố cảng Hà Tiên vang bóng một thời… bây giờ ở đâu ? Mạc phủ Hà Tiên chắc chắn rất đặc biệt, vì ngoài thực thi các công việc “nội chính” như của “một vương quốc” thì cung điện họ Mạc là nơi trực tiếp điều hành thương cảng hoạt động buôn bán, tàu bè vào ra, huấn luyện thủy quân, bảo vệ nhân dân, vùng đất, vùng biển cửa ngõ… Bao quanh cung điện là phố cảng, là làng nghề, là hoạt động thương mại sôi nổi… Trong thế kỷ XVIII, thủy binh trấn Hà Tiên của Mạc Thiên Tứ là một lực lượng hùng mạnh, không chỉ có khả năng làm an tâm các thương thuyền ra vào phố cảng mà còn bảo vệ cả một vùng biển rộng lớn trước sự đe dọa của ngoại xâm và hải tặc.

Hà Tiên vào thời Mạc Cửu là một mắt xích quan trọng ở phía đông vịnh Thái Lan, trên tuyến hàng hải thương mại châu Á qua vịnh Thái Lan, men theo bờ biển Đông Việt Nam lên Quảng Châu – Trung Quốc hay Luzon – Philippin. Cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích khi cai quản vùng đất này đã áp dụng một chính sách tự do và coi trọng thương mại. Hà Tiên vì vậy trở thành điểm đến của các đoàn thương thuyền từ bán đảo Mã Lai, Sumatra, Java, Siam, Ấn Độ, Miến Điện, Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam,… Ở vào thế kỉ XVIII, Hà Tiên là một thị trấn buôn bán sầm uất, một hải cảng luôn có mặt các tàu buôn phương Tây và các nước Nam Á, trong hải trình từ tây sang đông và ngược lại. Những tàu này thường xuyên cập bến, những hiệu buôn của người Hoa lẫn người Việt lần lượt mọc lên, buôn bán nhộn nhịp. Quán xá, hiệu ăn và các cửa hàng mỹ nghệ bày bán mời gọi mọi người. Những lưu dân từ các tỉnh miền ngoài lũ lượt đi thuyền, vượt sóng gió vào Nam, tới đây vừa buôn bán, vừa đánh bắt hải sản và giao lưu với người nước ngoài.

Buổi sáng, tôi lên một nhà hàng nổi nằm sát một phố ở Hà Tiên. Xa xa phía phải là cầu bê tông Tô Châu, mới toanh, to lớn mà vô hồn. Bên trái lặng lẽ là cầu phao nằm ép sát mặt nước buồn bã nhớ người. Sông Giang Thành hiu hắt tàu bè ? Không còn những ngôi lầu với khuôn cửa chạm trổ, sơn son thếp vàng ? Không có những chiếc thuyền buồm lớn chờ ăn hàng để ra khơi ?

Trên các trang sách, khi nói tới Hà Tiên thì đồng thời một loạt các tính từ đẹp nhất được bộ hành theo: giàu, đẹp, nên thơ, giao thoa văn hóa ba dân tộc, nhiều di sản văn hóa có giá trị, đỉnh cao văn học Tao đàn Chiêu Anh Các… Nhưng Hà Tiên thập cảnh giờ đã ở đâu ? Kim Dự lan đào (Núi Pháo Đài) hiện đã bị bao chiếm cho những khách sạn, nhà hàng quán nhậu, mọc lên. Lộc Trĩ thôn cư (xóm Bãi Nò) chỉ còn lại trong những câu thơ di cảo Chiêu Anh Các. Đông Hồ Ẩn Nguyệt (Đầm Đông Hồ) cũng đang bị một dự án lấn biển làm biến dạng… Những cảnh tượng trong thơ Chiêu Anh Các như vầy bây giờ còn đâu ?

Cò đâu kể số́ muôn vàn
Tuồngng mây vén ngút man man bay về
(Cò đậu Châu Nham)

Đã hay lai láng dòng xanh
Cá phun nước mực, hạc quanh khói trà
Nhạn gần xa hãy còn hiệp lũ
Chốn bãi nồm bay phủ mừng xuân
(Sóng nước Nam Phố)

Không hiểu sao, đến Hà Tiên trong những ngày bộ máy công quyền đang hối hả tìm cách quy hoạch Hà Tiên thành một đô thị du lịch, tôi lại nhớ đến Tao đàn Chiêu Anh Các và chùa Phù Dung. Người Hà Tiên ngày nay ai cũng tự hào về mảnh đất đã khai sinh ra tao dàn lớn thứ 2 trong lịch sử văn chương dân tộc thời phong kiến. Nhưng không ai đủ bình tâm để thấy rằng: ở Tao đàn này, ngoài chủ soái duy nhất là Mạc Thiên Tứ, có ai là gốc Hà Tiên không ? Chỉ thấy mấy chục người của tao đàn đều từ các nơi khác đến (Phúc Kiến, Quảng Đông – Trung Quốc, Thuận Hóa, Quảng Nam, Gia Định). Không hiểu sao suốt triều Nguyễn, dù rất khuyến khích mở mang việc học hành thi cử trên đất phương nam, nhưng qua 20 khoa thi Hương, không có người nào là dân Hà Tiên đỗ Cử nhân Hán học, và nền văn học Hà Tiên cũng không có người nào đủ sức để nối tiếp tao đàn Chiêu Anh Các ?

Lại nhớ đến bài thơ “Thạch Động thôn vân” của Trịnh Liên Sơn:

Hô hấp đáo thiên thông đế tọa
Vãn lai tùy địa luyến nham a
Thôn tàn thiên địa tinh hoa khí
Tịnh xuất bồng lai ngũ sắc ca
(Hút phun đến chốn trời cao ngự
Qua lại tùy nơi mến đá cây
Nuốt hết đất trời tinh khí tốt
Nhả ra năm sắc ấy bồng lai)

Thật hào sảng và mạnh mẽ thay ! Thế nhưng nền đất lầu Chiêu Anh Các bây giờ ở đâu cũng chưa ai biết rõ ?

Còn chùa Phù Dung với những pho tượng có cốt xường làm bằng tre, bên ngoài đắp hồ bột, giấy thơm, được sơn son thiếp vàng rất lộng lẫy trầm mặc với câu chuyện về người vợ lẽ Mạc Thiên Tứ chỉ còn là câu chuyện gợi nhớ nàng Tiểu Thanh trong thơ Nguyễn Du… Bởi vậy, nỗi buồn càng lớn !

Trên đường đi-về Hà Tiên, qua Kiên Lương thấy những ngọn khói của mấy cái nhà máy xi-măng Hà Tiên, Holcim nghi ngút trên nền trời mà vẫn thấy lo hơn là mừng… Hà Tiên – Kiên Lương đặc biệt hơn hết ở vùng châu thổ mênh mang sông nước này chính là hệ sinh thái núi đá vôi đặc biệt và duy nhất ở Việt Nam ở nhiều phương diện khác nhau như sự cô lập về mặt địa lý, cảnh quan và địa hình núi đá vôi kỳ vĩ, hang động có tính thẩm mỹ cao, đa dạng sinh học cao với nhiều loài đặc hữu. Sự kết hợp hài hòa giữa biển, núi đá vôi, hang động, rừng ngập mặn, đồi núi đất, đồng lúa… đã tạo nên một chân dung tự nhiên đặc biệt cho Hà Tiên. Tính từ năm 1993, tổng diện tích đá vôi là 3,6 km2, song đến năm 2004 chỉ còn lại 3km2. Chắc chắn con số này sẽ tiếp tục giảm mạnh vì ngày càng có nhiều ngọn khói lò xi măng ngoằn ngoèo vẽ lên nền trời Hà Tiên…

nhớ hồi người bạn ở Tân Bình khoe đã sưu tập được một loại lan độc nhất vô nhị ở Việt Nam là Lan Bầu Rượu Kiên Lương (Calanthe kienluongensis) mới biết lời anh ta không phải nói khoác chơi vui. Rồi đây, khi những con đường rải nhựa lao tới, cắt chéo những vùng đất biên địa hoang sơ này, những loài ốc đặc hữu tại các núi đá vôi ở Hòn Chông, những loài chân đốt và vọoc bạc quí hiếm trên một số đồi đá vôi Moso, Lô Cốc, Khoe Lá, và núi Chùa Hang sẽ không còn ngôi nhà để sinh tồn. Hang động khô khốc không còn là nơi cư trú của một số loài chim, dơi, để theo mùa theo năm mà ăn côn trùng và thụ phấn cho cây sầu riêng. Lại nhớ hình bóng hai cha con ở hòn Phụ Tử, quấn quýt bên nhau qua bao tháng năm, giờ đã lìa xa, và đành chịu cảnh cô đơn giữa sóng biển bạc đầu.

Đường từ Hòn Trẹm về Hà Tiên vẫn còn nhiều quãng cây cối tự nhiên chạy dọc hai bên đường. Cây thốt nốt đơn độc bên những cây dừa, cây keo lá tràm. Bần, đước, sứ, vẹt vẫn còn bám theo mặt đường chạy ra tận những con sóng biển dù cho nhiều đoạn vẫn bị con người cắt khoảnh phân lô để nuôi tôm, nuôi cua xuất khẩu. Đôi chỗ nhà dân lấn ra mặt vịnh, những nền đất bơm cát chờ ngày đóng cọc bê tông xây nhà cao tầng…

Tôi có thói quen tham lam là đôi khi trên đường lữ thứ tôi cứ hay tự hỏi một câu: nếu mình đến đây luôn để ở thì được không ? Đến Hà Tiên, câu ấy lại hiện lên rất rõ… Tôi quay ra phía ngoài cầu Tô Châu chừng gần 10 cây số, rồi đứng ngắm nghía đất đai ở đấy như thầy địa lý tìm huyệt mộ cho mình, và thấy lòng thật yêu mến nơi này. Lòng lại muốn ly hương. Ca dao Hà Tiên có một câu rất lạ, nhưng lại rất hợp với tôi lúc ấy: Hà Tiên dẫu chẳng là quê / Mà sao vẫn cứ đi về bên nhau.

Tối về ngủ ở resort Hòn Trẹm. Nửa đêm mở cửa thấy dưới chân những ngọn đèn xanh đỏ của ngư dân đánh bắt cá thắp lên giữa tiếng sóng rào rào. Ngay sát những ghềnh đá cheo leo, bóng người trên những chiếc thuyền nhỏ soi đèn, cầm vợt, thong dong mà nhỏ nhoi mờ mờ giữa nhân ảnh. Không nhìn thấy dãy núi Chung Sơn huyền thoại. Hòn Kiến Vàng cũng không thấy. Buổi tối ở hòn Trẹm thật yên tĩnh. Lại nhớ những quán cóc lác đác mọc lên hai vệ đường nằm dưới những cây sao, cây dương, cây mù u… Lại nhớ những món quê dân dã như hủ tiếu hấp, chả giò khoai môn chiên, món xôi ba màu (xôi xoài, xôi hột gà và xôi tôm khô), canh chua cá bớp nấu sả nghệ, bún kèn, bánh khéo, rượu mỏ quạ,… Nhớ ốc giác và biên mai, những sinh vật giáp xác sống bám theo các vùng đá rạn, vách đá ngập sâu trong nước biển. Tôi đặc biệt mê Phật thủ, nên khi đến Hà Tiên bao giờ cũng làm mấy que “kem” chuối nướng dẻo thơm của người Khmer… Thật yên lòng khi về ở Hòn Trẹm. Có lẽ đêm vô tư đã phủ xuống thế gian một bóng mờ che lấp hết mọi thứ, che đi đôi mắt luôn mở to với nhiều lo âu, ưu tư thường có của con người ?

Rời Hà Tiên, tôi cứ sợ hãi khi nghĩ Hà Tiên ngày nào đó sẽ lên thành phố, và tôi sẽ không còn nơi chốn để yêu nhớ, tìm về… Và cứ phân vân tự hỏi: lòng mình có ích kỷ lắm không khi cứ mong sao Hà Tiên của tôi vẫn mãi mãi là một thị xã lặng lẽ, nồng vị biển khơi, đậm nét hoang sơ ?

Hà Tiên, tháng 10/2010

Bài viết đã được đăng trên tạp chí Văn hóa, nghệ thuật và du lịch (số ra tháng 11/2010); báo Đà Nẵng cuối tuần (số 3783, ra ngày Chủ nhật 29/11/2010) 

Read Full Post »


Năm 1965, Hội đồng Hòa bình Thế giới quyết định kỷ niệm 200 năm ngày sinh của đại thi hào Nguyễn Du. Từ đó, nghiễm nhiên tất cả chúng ta tin rằng Nguyễn Du sinh 1765. Vì 1765 là năm Ất Dậu, từ việc dựa vào năm âm lịch, người ta cho rằng thi hào sinh 1765. Nhưng gia phả họ Nguyễn Tiên Điền ghi chú rõ hơn là Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tính ra dương lịch là ngày 3 tháng 1 năm 1766, nghĩa là tính đến năm cuối thế kỷ XX này, vào tháng 2, Nguyễn Du đã có 234 tuổi. Hai trăm ba mươi tư năm so với câu thơ: Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, / Người đời ai khóc Tố Như chăng ?) – Độc Tiểu Thanh Kí – nỗi hồ nghi thiếu sự tri kỷ với cuộc đời đã được giải tỏa, “vượt khoán” so với thời gian dự tính của ông.

Thế nhưng, đọc Thanh Hiên thi tập cùng toàn bộ thơ chữ Hán, nỗi cô đơn buồn tủi của Nguyễn Du cứ đeo đẳng chúng ta một cách chung tình.

Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,

Bạch đầu đa hận tuế thời thiên

Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,

Hải giác thiên nhai tam thập niên

(Tan tác anh em Hồng Lĩnh vắng

Ngậm ngùi năm tháng bạc đầu rồi

Đường cùng còn có trăng soi đến

Ba chục năm qua khắp bể trời)

Quỳnh Hải nguyên tiêu

Không chỉ mười năm gió bụi ngồi nhìn “hoa cúc mà thèm ăn”, suốt đời Nguyễn Du là cả một bể cô đơn, và vì quá cô đơn trong đời thực, ông đành thích trò chuyện với những linh hồn đã mất. Không ai khác, trong nền văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Du là người duy nhất đã dẫn những linh hồn đã mất diễu hành qua trang thơ của mình để nói lên tất cả nỗi đau của kiếp người (Văn tế thập loại chúng sinh).

Trong những nỗi niềm cô đơn, tôi về Nghi Xuân (Hà Tĩnh) vào một trưa đông nắng vàng để thắp hương cho Người. Bến Giang Đình, một trong tám cảnh đẹp của Nghi Xuân, nơi tiễn đưa và đón rước những vinh quy cho các vị đại khoa và quan to trong bài thơ Giang Đình hữu cảm không còn nữa. Xe bồ ngựa tứ, đoàn thuyền tiên xô nước, những chiếc tàn quí không còn, bến Giang Đình chỉ còn lặng lẽ trong tấm ảnh đặt ở trong nhà lưu niệm của nhà thơ với chiếc cây lẻ bóng trơ trọi như hình bóng Nguyễn Du còn lại. Nhưng những ngọn khói đốt đồng qua những khóm trúc bình dị vẫn chờn vờn thản nhiên loang lên bầu trời xanh ngắt.

Tiên Điền yên lặng và thành kính.

Những ngọn cỏ vàng và những bông hoa đỏ trên mộ Nguyễn Du vẫn còn nguyên. Rơm rạ và thóc phơi phóng dọc theo các ngã xóm và lan đến tận chân thềm nhà thờ cụ Nguyễn Nghiễm (bố nhà thơ Nguyễn Du). Những cánh đồng vàng dở dang trong mùa gặt vắt vẻo qua những con đường, quấn quít xung quanh nhà từ đường, lăng mộ họ mạc nhà Nguyễn chứa chất một bài ca sự sống tịch nhiên và vĩnh hằng.

Trong khói nhang lòng vòng ngát mùi trầm hương, tôi lắng nghe tiếng thông reo rì rào bên ngoài, những cây thông kết bạn đầm ấm trong vườn lưu niệm Nguyễn Du. Bên cây muỗm, cây nóng mà ông Nguyễn Quỳnh từ bỏ việc quan về để dạy con cháu học, để có một Nguyễn Nghiễm tể tướng, để có cả một dòng họ danh gia với Nguyễn Khản, Nguyễn Nể, Nguyễn Điều, Nguyễn Ức và Nguyễn Du, đã trồng, nay đã gần ba trăm tuổi, tôi như còn nghe tiếng giảng bài của ông. Thật lạ là suốt hơn cả mấy trăm năm khốc liệt của chiến tranh, chống Pháp, rồi chống Mỹ, hai cây muỗm và nóng ấy vẫn trường thọ và vươn lên xanh thẳm trên nền trời xứ Việt. Dường như đấy là sức sống của nền văn hóa Việt, một nền văn hóa cắm sâu vào đất, gìn giữ một thế giới tâm linh và hướng vọng đến sự vĩnh cửu.

Ấm áp và đạm bạc, xa lạ với lề lối văn minh, những khu vườn xóm giềng cụ Nguyễn Du ngày nay vẫn còn giữ nguyên những hàng rào tự nhiên, râm bụt, chè tàu, tre trúc,… Từ đó tiếng gọi nhau í ới vang lên, những bát nước chè gừng được đưa qua hàng rào chia nhau miền hạnh phúc nhân tình của những con người trên mặt đất. Không còn cô lẻ và đau buồn, bóng Nguyễn Du dường như mỉm cười trên nền lúa vàng dưới bóng trời ngắt xanh vĩnh hằng một thế giới đậm bản sắc văn hóa Việt, một nền văn hóa phác thực, nghĩa tình, đầy nhân tính mà trầm tư sâu lắng.

Trong lặng lẽ ấy giữa vườn Nguyễn Du, tôi nhớ bài thơ Ngẫu hứng (1) của ông:

Tam nguyệt xuân thi trưởng đậu miên

Hoàng hồ phì mãn bạch hồ kiên

Chủ nhân tại lữ bất quy khứ

Khả tích Hồng Sơn thuộc vãn tiền

(Tiết tháng ba xuân đậu nảy đều,

Cầy vàng béo mập, trắng sinh kiêu

Chủ nhân vắng mãi chưa về được

Phó thác Hồng Sơn mặc chú tiều)

Mùa xuân đã về giữa đất “đón xuân” (Nghi Xuân), núi ngàn Hống vẫn xanh lặng lẽ bên dòng sông Lam chảy qua ở trên cao kia. Người cha già thi ca xứ Việt suốt đời thương yêu và tìm kiếm hạnh phúc cho con người chắc sẽ còn phân vân đâu đó trên nền trời. Nhưng nỗi buồn đơn độc vẫn còn đó !?

Nghi Xuân, ngày đầu xuân Canh Thìn

Read Full Post »


Chế Lan Viên là một trong những người suy tư và viết về lao động thơ nhiều nhất, ông thể hiện tất cả điều đó thành thơ:

Thơ, thơ đong từng ngao nhưng tát bể

Là cái cân nhỏ xíu lại cân đời

Hiểu giá trị của thơ, ông là người trong suốt hành trình sáng tạo đã luôn tìm  cách tốt nhất để chuyển hóa chất liệu đời sống thành chất liệu tâm hồn bằng cách thầm lặng đánh vật với câu chữ, ý tưởng. Như người phu chữ, ông luôn tuân theo những hình luật khắc nghiệt của sáng tạo nhưng bao giờ cũng biết vượt qua để hướng tới bến bờ nghệ thuật: thơ phải có ích cho tư tưởng và phải mới lạ cho xúc cảm:

Đừng làm nhũng câu thơ khuôn mình theo văn phạm

Như cây xanh quá thẳng chim không về

Cả nghĩ như thế nên Chế Lan Viên luôn trung thực là mình, thơ ông thể hiện rất rõ cách tư duy sâu sắc, cách cảm nhận tinh tế và cách thể hiện độc đáo hiếm thấy. Trước sau trong sáng tạo, tiếng thơ của ông luôn đậm chất chính luận, triết lý và đầy sáng tạo. Ông luôn hướng thơ về những vấn đề trung tâm của đời sống, những vấn đề ở tầm dân tộc, thời đại. Tư duy thơ ông sắc sảo, đa diện, ông không bao giờ nhìn sự vật một phía một chiều, ông xoay trở, quan sát ở nhiều bình diện, góc độ, tự nâng mình lên một tầm cao bao quát về văn hóa, tư tưởng, luôn đặt sự kiện, vấn đề trong mối tương quan nhiều sự vật khác để so sánh đối chọi, liên hệ, tổng hợp. Chính vì thế ý tưởng thơ của ông sắc sảo; lời thơ tân kỳ, sáng tạo; nhịp thơ cuồn cuộn; mạch thơ căng, nâng cao và gợi nhiều suy tưởng cho người đọc. Chúng ta cảm thấy rất rõ tâm hồn nhà thơ, đã yêu thương thì yêu thương da diết, điên dại và căm ghét thì cũng đến độ “từ bỏ, loại trừ”. Cho nên trong Điêu tàn cảm xúc thơ có lúc bị xô lệch nghiêng ngửa về phía buồn đau, tuyệt vọng, đó là một nỗi đau khổ thống thiết của một tâm hồn bị vong nô:

Trời hỡi trời ! Hôm nay ta chán hết

Những sắc màu hình ảnh của trần gian

Trong Ánh sáng và phù sa lại là những câu thơ gieo lửa vào lòng người, thúc giục tiến lên, hăm hở, hào sảng, vang vọng về hiện tại và tràn đầy niềm tin. Nhưng đối với kẻ thù nhân dân, ý tưởng thơ cứ gân guốc, thô thiển, sần sùi chạy trên câu thơ. Những câu thơ không có “trang phục thơ” ấy là do lòng phẫn nộ mãnh liệt. Ở Di cảo thơ II, nhà thơ dường như “kê biên” tài sản suy nghiệm của mình, ông lật trái mình một cách thành thật, trần trụi, vừa thể hiện, vừa lý giải; tứ thơ, mạch thơ, nhịp thơ cuộn lên liên tục, dằn xoáy dữ dội để đi đến được tận cùng lý lẽ, chân lý. Thơ Chế Lan Viên vì thế là đại diện cho một hồn thơ thời đại, một hồn thơ đã vận động đi theo những bước tiến của lịch sử. Với Điêu tàn, thế giới thơ Chế Lan Viên đứng riêng một cõi “giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở nửa thế kỷ XX. Nó đứng sững như một cái tháp Chàm, chắc chắn và lẻ loi, bí mật” (Hoài Thanh). Đó là một cõi âm giới với xương sọ đầu lâu, với mồ không huyệt lạnh, với tha ma pháp trường, đó là một dòng sông Linh hư ảo được dựng lên giữa tà dương nắng xế, trong những đêm mờ sương tàn lạnh, với những hồn ma vất vưởng, những thành quách đổ nát trong một sắc màu tàn lụi, kinh dị. Và Điêu tàn vì thế là một thế giới hư linh, ma quái, chìm đắm trong bóng tối cô đơn lạnh lẽo với những cơn mê sảng của một tâm hồn giá lạnh bị vong nô. Bằng một lòng tin đau đớn, ông dựng lên một thế giới hoang tưởng, hư ngụy và ông tin là nó có thật. Rồi ông bị hút theo xác tín siêu hình đó. Nhưng sau đó, xác tín bị đánh vỡ, lúc ấy ông trở nên cô độc và câm lặng. Và thế là nhà thơ kêu lên hốt hoảng, một tiếng kêu khắc khoải về nỗi đau bị biến chất, về việc mất lòng tin và chỉ còn lại sự cô đơn. Thực ra đó là cách nhà thơ cố tạo ra một sự ngăn cách giả định giữa nhà thơ và cuộc đời. Khác với Hàn Mặc Tử, nỗi đau đời được diễn đạt bằng nỗi đau người, nỗi đau trải nghiệm của “thịt da tôi sượng sần và tê điếng”, Chế Lan Viên nhức nhối một nỗi đau trí tuệ sâu sắc. Đó là cơn vật vã của suy tưởng, chiêm nghiệm về xác tín, về niềm tin, về sự tồn tại của con người trên mặt đất. Tiếng thơ ấy là tiếng thơ của một thế hệ bị mất nước luôn bất hòa với thực tại và mong đòi trốn thoát. Vì thế, có thể nói với Điêu tàn Chế Lan Viên là một nhà thơ lãng mạn.

Sau 1945, đi theo cách mạng, đất nước được độc lập, tự do, thế giới Điêu tàn hư ngụy bị sụp đổ. Lòng tin trở lại sinh thành và có căn cứ. Từ đó, người ta thấy tâm hồn ấy đã “giã từ thung lũng đau thương để bước ra cánh đồng vui, từ chân trời một người để đến chân trời của tất cả”. Nhà thơ chia tay cái gia tài đồ sộ hàng triệu nỗi buồn để đến với tố quốc và nhân dân. Thoát khỏi cái tôi siêu hình, tâm hồn nhà thơ tràn ngập một vẫy gọi yêu thương mới, một mê đắm tin tưởng mới. Ánh sáng và phù sa vì thế chứa đựng nhiều chất liệu hiện thực của cuộc đời, giàu ý nghĩa xã hội và chan hòa tình cảm cộng đồng. Chính ở đây, Chế Lan Viên là nhà thơ cách mạng.

Song cần phải thấy rõ rằng, trong Ánh sáng và phù sa, khi lịch sử đi những bước khổng lồ thì cái “tinh tế nở hoa” tạm thời chưa nghĩ đến. Nhà thơ vì thế chỉ biết hướng ngoại với tư cách công dân hay nhà sử học. Đó là nhà thơ cách mạng hành động. Còn ở Di cảo thơ II, con người đứng trước sự đòi gọi của thiên mệnh bó buộc, nhà thơ phải trở về với mình để chân thành phản tỉnh. Nhà thơ cách mạng vì thế hướng nội trong cách thế của một triết nhân đầy suy tư, chiêm nghiệm. Giọng thơ trở nên đằm thắm, sâu lắng, trầm tĩnh, đầy tự vấn “Anh phải tự làm hoa tiêu lấy chính mình”. Ông lật trái mình qua giông bão “sấm chớp”. Và cứ thế, nhà thơ mải miết săn lùng sự thật về cuộc đời, con người, về nghệ thuật và chính mình. Trong cơn mặc khải suy tưởng, đôi lúc ông trở nên hoài nghi, mặc cảm, chua chát, sắc lạnh, hóm hỉnh, đùa cợt. Ông suy tư về những vấn đề bản thể, song vẫn nhìn thấy cả một nền triết học sẵn sàng nảy lộc của cây bàng. Đấy là một thứ minh triết tự nhiên của đời, vượt lên mọi “lý thuyết màu xám”. Di cảo thơ II, Chế Lan Viên là nhà thơ cách mạng suy tưởng.

Trong nền thơ ca Việt Nam ở vào thế kỷ XX vừa khép lại, sự nghiệp thơ ca đồ sộ đầy ý nghĩa thời đại của Chế Lan Viên là một hiện tượng thơ mang tầm thế kỷ. Gương mặt nghệ thuật đa diện của ông là gương mặt tiêu biểu cho nhiều thế hệ nhà thơ đã gắn bó và sáng tạo suốt chiều dài một thế kỷ văn học chứa nhiều canh tân về mặt thi pháp của một nền văn học hiện đại có gia tốc lớn. Ở chặng đường nào, dù là Thơ Mới lãng mạn (1932 – 1945), thơ Cách mạng (1945 – 1975) hay thơ thời kỳ Đổi mới (1986 – 2000), ông vẫn ở hàng đỉnh cao tiêu biểu với những tập thơ biết gây sôi động thi đàn: Điêu tàn, Ánh sáng và phù sa, Di cảo thơ II. Có thể nói, đấy là một cuộc chạy maratông văn học bền bỉ nhất và cũng sung sức nhất trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại thế kỷ XX mà ông là người duy nhất đến chót cuộc hành trình. Không chỉ thế, dường như bước chạy bằng thơ ấy vẫn còn mải miết ở về phía trước bởi những giá trị hằng cửu của cái Đẹp thi ca trong thơ của ông. Thật quá lời nhưng cũng không có gì miễn cưỡng và e dè để nói rằng: mỗi bài thơ của Chế Lan Viên là một bậc thềm của ngôi đền suy tưởng độc đáo mà người đọc có thể từ đó bước tới được nơi cao đẹp sang trọng, để từ đó chúng ta có thể khởi hành một cuộc lãng du luôn luôn mới mẻ trong việc suy tư về con người, cuộc đời và thơ ca.

———————————————————————-

(*) “Tháp bayon bốn mặt” là tên một bài thơ của Chế Lan Viên.

Read Full Post »


Càng đi vào Nam, cái bánh tráng (bánh đa) càng phổ biến và lớn dần. Bánh tráng chợ Ba Đồn (Quảng Bình) dày, cứng và nhỏ, nhưng qua đèo Hải Vân trở vô, cái bánh tráng như to hẳn lên, đến châu thổ Cửu Long thì lớn hơn hẳn. Có vẻ như càng đi xa, cái bánh càng to hơn. Có nhiều lý do để giải thích, song có thể thấy dấu ấn lịch sử Nam tiến vẫn còn để lại rất nhiều trên các đặc sản, các món ăn và bánh trái phương Nam.

Với danh xưng Quảng Nam do vua Lê Thánh Tông đặt định vào năm 1471, xứ Quảng – vùng đất mở rộng về phương Nam được xem là đầu cầu quan trọng nhất trong lịch sử Nam tiến của dân tộc. Chính trên mảnh đất này, người Việt xứ Quảng đã hình thành và phát triển một bảng danh mục thực phẩm mang dấu ấn lịch sử rất rõ. Ngày nay, dù lùi rất xa quá khứ, nhưng những món ăn đặc sản, bánh trái xứ Quảng vẫn còn rõ đặc trưng Nam tiến của những lưu dân đi mở đất ngày nào.

Người Quảng rất mê làm các thứ bánh theo kiểu lương khô như: bánh nổ, bánh da, bánh khô, bánh in, bánh tổ, xôi ngọt… Đây là các thứ bánh dễ bảo quản, dễ mang theo, có thể để lâu, có khi hơn hai, ba tháng sau vẫn còn có thể dùng được. Có lẽ trên bước đường khai phá đất đai, lập làng, dựng vườn, những lưu dân xứ Quảng đã mang theo những món bánh trái thế này để sử dụng khi cần ?

Nổi tiếng nhất là bánh tổ, bánh tét – những loại bánh truyền thống lâu đời của người Quảng vào ngày Tết âm lịch hằng năm. Trên bàn thờ tổ tiên ba ngày đầu xuân của người Quảng không bao giờ vắng bóng ổ bánh tổ nâu sẫm, một thứ bánh được chế biến từ nếp, đường bát, gừng, mè trên những cái “rọ” bằng tre. Đây là thứ bánh có đặc trưng càng để lâu càng ngon, càng thơm.

Còn bánh tét chính là biến thể của bánh chưng đất Bắc. Bánh chưng xứ Bắc hình vuông, “nhưn” [1] đậu xanh và thịt heo. Khi Nam tiến, bánh chưng thay hình đổi dạng thành đòn dài để dễ làm, dễ mang theo, nhất là dễ sử dụng và sử dụng được lâu hơn. Phần lớn bánh tét người Quảng chỉ dùng “nhưn” đậu, ăn chừng nào thì “tét” chừng đó, có thể để lại phần thừa ba, bốn ngày sau. Cho nên nói bánh tét là sản phẩm rõ nét nhất của lưu dân, của những người hay di chuyển, luôn cơ động thì quả là không sai. Trong các câu chuyện truyền khẩu, bánh tét, bánh tổ, bánh in,… chính là “lực lượng hậu cần” quan trọng dành cho quân Tây Sơn trong những ngày hành quân thần tốc ra Bắc, tiến đánh quân Thanh vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789.

Món ăn nổi tiếng nhất, độc đáo nhất và cũng đặc trưng nhất cho văn hóa ẩm thực xứ Quảng chính là mì Quảng. Nếu Hà Nội có món phở bắc thơm ngon; cố đô Huế có món bún bò đặc sắc thì ở xứ Quảng lại nổi danh với món mì Quảng truyền thống. Mì Quảng khi xuôi Nam đã bị “lai” đi ít nhiều với nước “nhưn” quá ngọt, quá nhiều, lại thiếu rau sống đặc trưng, thiếu ớt xanh và bánh tráng ăn kèm. Tô mì Quảng thuần túy thì nước “nhưn” rất ít, vị mặn đậm đà, rau sống phải có bắp chuối non hoặc cải cau non xanh ăn kèm bánh tráng và ớt xanh, và một nhúm đậu phụng rang rắc lên… Nhưng mùi vị mì Quảng chính là lá mì dày, tráng từ bột gạo làm từ phù sa sông Thu, ngậy mùi dầu phụng sống thoa trên từng con mì… Có người nói mì Quảng không có ISO, vì nước “nhưn” có thể làm từ bất cứ thứ gì: bò, heo, gà, tôm, trứng, cá (các loại),… Thật khác với phở Bắc, bún bò Huế, hay hủ tiếu Mỹ Tho, những món ăn dường như đã “cố định” một thứ nguyên liệu ! Song người ta không biết rằng ISO mì Quảng chính là tính cơ động của tinh thần không chọn lựa nước “nhưn” của nó, chính là sự năng động sử dụng nguồn thực phẩm tự nhiên tại chỗ, được chế biến rất dễ, rất nhanh và ăn cũng đơn giản,… Cái đặc sắc của mì Quảng còn bộc lộ ở chỗ sử dụng như nóng vội những loại nguyên liệu chưa chín tới, như: dầu phụng sống, ớt xanh, rau non, bắp chuối non, đậu rang nửa hạt… Có vẻ như những lưu dân xứ Quảng trên những biền sông, giữa những cánh rừng Nam tiến đã nhặt nhạnh vội vã và năng động chế biến để làm nhanh một món ăn đủ ngon, đủ dưỡng chất để tiếp tục hành trình đi tới khai phá đất đai, lập làng, dựng nhà,… ?

Do đặc trưng hay di chuyển và cơ động của lưu dân xứ Quảng nên người Quảng rất chuộng các món trộn, món cuốn. Món trộn có đủ các loại rau, quả, củ được thái nhỏ trộn với các loại tôm, thịt, đậu phụng… có thể có được. Nổi bật có thể thấy là các món mít trộn, bắp chuối trộn, đu đủ trộn, ổ qua trộn… Khi ăn món trộn, người Quảng lại dùng bánh tráng nướng dòn mà xúc,… Món cuốn thì có bánh tráng thịt heo rau sống, bánh tráng cuốn cá nục hấp,… Tiêu biểu nhất cho “đội hình” này có lẽ là món gỏi cá Nam Ô. Với cá cơm, cá trích, cá mòi… được cắt đuôi, đầu, bỏ xương, tách ra làm hai, xắt thành miếng, ướp với gừng, riềng, tỏi đã băm nhuyễn, thính bắp, sau đó dùng rau rừng Hải Vân để cuốn. Với những nguyên liệu như vậy, nên món gỏi cá Nam Ô được xem là món ăn tổng hợp tinh túy và hương vị của biển, của rừng….

Những món ăn điển hình nói trên đã cho thấy sự nổi bật một kiểu ẩm thực cơ động của lưu dân, của những người Nam tiến… Cách thức chế biến gọn, nhanh, cách ăn cũng không dềnh dàng mâm bát, không cầu kỳ, mà chất lượng bữa ăn vẫn đầy đủ, đảm bảo dinh dưỡng,…

Là những con người đi mở đất mạnh mẽ, năng động, trọng thực chất, quen với chí dấn thân lập nghiệp, nên món ăn của người Quảng khi đã kỳ công chế biến thì phải để lâu, dễ bảo quản, dễ mang đi xa, như bánh nổ, bánh da, bánh tổ, bánh in, khô mè Cẩm Lệ, xôi ngọt, đường bát,… khi đã chế biến nhanh và ăn đơn giản cho kịp độ đường, cho bớt thời gian thư thả để chặt cây, đắp đất thì không cầu kỳ, câu nệ nguyên liệu, nặng nhẹ mâm bát, như các món trộn, món cuốn, như mì Quảng, bánh tráng cuốn thịt heo, bê thui chấm mắm cái,…

Cũng như nhiều nơi khác, văn hoá ẩm thực xứ Quảng chịu ảnh hưởng, tác động qua lại với văn hoá ẩm thực các vùng, miền, các dân tộc khác nhau, tuy nhiên, người xứ Quảng có một khẩu vị “cực đoan”: đã ngọt thì không thể ngọt hơn, ngọt quắn, đã mặn thì mặn đến độ đậm đà, cay thì cay xè, cay xé miệng,… Hình thức sản phẩm phần lớn xù xì, thô ráp. Chén bánh bèo của người Quảng thì chén nào chén nấy đầy đặn, gần bằng cái chén ăn cơm (so với chén bánh bèo láng giềng người Huế). Bát đường đen của người Quảng thì to, đầy tràn mật đường và ngọt tận cùng…

Rõ ràng, di sản văn hoá ẩm thực xứ Quảng phát triển từ nguồn cội Thanh – Nghệ – Tĩnh trong sự tiếp biến văn hóa ẩm thực của người Chăm, người Hoa, người Pháp với vai trò chủ động sáng tạo của những con người trên một vùng đất mới, trong những điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh sống mới… Vì thế món ăn xứ Quảng đã in hằn dấu vết đặc trưng của lưu dân xứ Quảng trên bước đường Nam tiến. Tố chất trọng thực, ghét hình thức đến mức giữ nguyên vẻ thô ráp, xù xì; mạnh mẽ đến nóng nảy; kiên định đến cố chấp, nên dù ở đâu, dù qua nhiều thế hệ, qua biến thiên lịch sử, con người xứ Quảng vẫn giữ được dấu ấn lưu dân, Nam tiến và tính cách của mình trên các món ăn đặc sản quê hương./.

Saigon, Tết Canh Dần 2010

Bài viết đã được đăng trên báo Du lịch (bài viết “bị” gọt những chỗ hay nhất để chỉ còn phần khảo tả món ăn, số tân niên 2010 – 1+2/2010 (701+702); cũng là số đầu tiên tái xuất sau khi bị đình bản vì vụ Hoàng Sa); đặc san Văn hóa dân gian đất Quảng Xuân Canh Dần (số 10, ra tháng 1/2010), báo Xuân Đà Nẵng (số ra ngày /2/2010)


[1] Nhưn: phương ngữ Quảng Nam, chỉ nhân bánh, nước lèo mì Quảng,…

Read Full Post »


Năm 1832, sau ba năm Nguyễn Văn Thoại mất, vua Minh Mạng vì nghe lời dèm pha sàm tấu đã ban hành lệnh “triệt hậu” đồi với đại công thần Thoại Ngọc Hầu: “truy giáng Thoại xuống hàm chánh ngũ phẩm và đoạt chức tập ấm của con hắn…”, và thực hiện thêm nhiều lệnh oan khiên khác nữa đối với Ông.

Thế nhưng, chúng ta cũng biết rằng, ngay sau đó là vào năm 1835, Kinh Vĩnh Tế, thành quả lao động của Thoại Ngọc Hầu lại được chính vua Minh Mạng cho khắc trên Cao đỉnh, một trong bộ Cửu đỉnh danh tiếng của triều Nguyễn đặt trước nhà Thái Miếu tại Cấm thành Huế. Còn tại An Giang, nơi ông đến xây dựng và ra đi, những địa danh như Kênh Vĩnh Tế, Thoại Hà, Thoại Sơn, làng Vĩnh Tế, xã Thoại Giang, xã Vĩnh Ngươn,.v..v… thì vẫn còn nguyên đấy những dấu ấn của Ông. Và trên tất cả, một sự thật hiển nhiên và vĩnh cửu là tinh thần của ông, linh hồn của Ông dường như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng người dân An Giang và Tây Nam Bộ. Hằng năm, hàng vạn người dân đã đến núi Sam để được thắp nén tâm nhang để tưởng nhớ và lễ tế Ông như một danh thần, như một chỗ dựa tâm linh… Chúng ta nói ra điều hiển nhiên này là để khẳng định rằng Thoại Ngọc Hầu và những công trình của Ông trên đất An Giang và ở miền Tây Nam Bộ đã trở thành một giá trị vĩnh cửu của đất nước và nhân dân. Ở đó, quyền lệnh triều đình và thời gian không thể phá huỷ được giá trị, vai trò của Ông trước lịch sử.

Thoại Ngọc Hầu là con người hành động. Sự dấn thân và lập chí của Ông là ở việc kinh bang tế thế, ở việc chiến chinh và gây dựng công trình chứ không dựng thuyết, lập ngôn. Vì thế đến nay, sau 180 năm Ông ra đi, dù đã được nhiều nhà nghiên cứu soi chiếu, tìm kiếm, chúng ta vẫn thấy còn rất nhiều khoảng trống về Ông. Những giá trị về xã hội, văn hóa, kinh tế, về ngoại giao với lân bang, về tầm nhìn bảo vệ vùng biên cảnh quốc gia của Ông đã được các giới khoa học nói nhiều.

Thế nhưng, điều dấy lên trong chúng ta là cái cách ông ứng xử và hành động giữa một thời đại nhiễu loạn tranh chấp, giữa mờ mịt trung tín và nhất là thói quen “hết chim bẻ cung” của triều đại phong kiến. Làm sao giữa một thời đại mà ngôi vua được xem là đấng chí tôn duy nhất, đã có lúc Ông dám kháng lệnh triều đình để từ chối tham gia cuộc tiến công kinh thành Phú Xuân vào năm 1800 ? Làm sao một vị khai quốc công thần của triều Nguyễn lại từ bỏ kinh thành, dành phần đời còn lại để lui về chọn trấn Vĩnh Thanh (gồm Châu Đốc, Cà Mau, Sa Đéc, Kiên Giang, Vĩnh Long) mà cai quản, cùng dân lội giữa sình lầy, đào kênh, tháo lũ, đắp đường, dựng làng,… nơi vùng biên cảnh ma thiêng nước độc ?

Để từ đấy, Ông đã dựng nên được một sự nghiệp mà đương thời sách “Đại Nam nhất thống chí” đã ghi lại rằng: “Từ ấy đường sông lưu thông, từ kế hoạch trong nước, phòng giữ ngoài biên cho tới nhân dân mua bán đều được tiện lợi vô cùng”. Gần hai thế kỷ đi qua, những giá trị mà ông “quy hoạch” về đường thuỷ, đường bộ, lập làng, tháo lũ vẫn còn nguyên, những miếu mạo thờ tự, những phong tục gầy dựng cho cả cộng đồng nhiều dân tộc do ông hoạch định đến nay vẫn còn tiếp tục hiện hình trên đất An Giang – Tây Nam Bộ. Chúng ta luôn tự hỏi điều gì đã giúp Ông làm nên một sự nghiệp phi thường như vậy giữa những chật vật khốn khó trăm bề của thời đại Ông, nhất là ở nơi sơn cùng thuỷ tận của vùng biên cảnh phương Nam như vậy ?

Ngày nay khi đến thăm khu lăng mộ của ông tại chân núi Sam và đọc “Tế nghĩa trủng văn”, chúng ta mới thấy hết tấm lòng vì nước vì dân của Ông. Dường như Ông là một đại danh thần phong kiến duy nhất đã chọn cái cách nằm chung với đồng loại chúng sinh bần hàn của mình trong cùng một khu lăng mộ. Không chỉ lo cho người sống, trong những ngày tháng sau khi thành quả đào kênh đắp đường đã thành, Ông đã cùng nhân dân gom góp, thu thập hài cốt của những người đã vì sự nghiệp đào kênh đắp đường mà ngã xuống, tự tay thảo Tế nghĩa trủng văn để chiêu an linh hồn cho người đã mất. Ngọn lửa trong bếp đã sáng, nén nhang đốt lên cũng ấm ! Không gì khác, chính tấm lòng vì nhân dân, một nhân dân cần lao lam lũ cần miếng cơm manh áo đã giúp ông hành động và làm nên tầm vóc của Ông. Đấy là cách ứng xử rất đặc biệt của Ông so với nhiều danh thần khác cùng thời với Ông. Cách ứng xử vì con người, vì nhân sinh của một đại thần thời phong kiến ấy vẫn còn nguyên giá trị như một bài học cho tất cả chúng ta hôm nay.

Thoại Ngọc Hầu là một con người toàn tài, kinh bang tế thế, giỏi về quân sự, ngoại giao lẫn kinh tế, văn hóa,… Nhưng điều chúng tôi rất tâm đắc ở Ông chính là cách Ông ứng xử và tồn tại giữa một thời đại vốn khó thở ấy, thay vua trấn nhiệm biên thuỳ, bảo hộ lân bang giữ gìn hoà hiếu 2 nhà nước và cả nhân dân 2 nước, cân bằng những “tranh chấp” quyền lực vốn thường diễn ra giữa trung ương và địa phương, vừa lo kinh tế, vừa xây dựng phong tục giáo hóa cho dân chúng. Điều đặc biệt ở vị quan Thống chế Thoại Ngọc Hầu uy danh lững lẫy là hướng tầm nhìn hành động của mình về phía nhân sinh, vì dân mà hi sinh. Danh vị của một chức quan không phải là mũ mão cân đai mà ở chính thành quả lao động cụ thể đem đến cho nhân dân. Chính điều này khiến Ông trở nên bất tử trong người dân An Giang và Nam Bộ, dù có những lúc do “thời tiết” chính trị bất thường mà danh phận Ông đã bị bỏ quên…

Ôn cố tri tân, nhân 180 năm ngày mất của Ông, hôm nay chúng ta tổ chức Hội thảo ở đây là để đánh giá đầy đủ hơn công lao đóng góp của Ông, soi sáng lại đầy đủ hơn chân dung của Ông. Tuy nhiên, chúng tôi rất mong các nhà nghiên cứu, các nhà sử học không chỉ lấp đầy những khoảng trống về Ông, mà còn phát huy được những giá trị từ nhân cách, từ sự ứng xử rất đặc biệt ấy của Ông để làm bài học ứng xử cho con người hôm nay.

Châu Đốc, tháng 11/2010

Read Full Post »


Trong Thiên tân ca của Hội hoa đàm, nhà thơ Phạm Thiên Thư đã buông những dòng pháp hỷ như sau:

Có con rùa nhỏ ngoài khe,

Từ lâu đợi suối trở về, nằm đây.

Ẩn mình dưới chiếc mai dày,

Ngó bờ rêu lục tưởng ngày xa xưa…

Quả thực, tôi thấy ông giống như con rùa nhỏ trong lời kinh Hiền Ngu đã được thi hóa ấy: con rùa đợi suối trở về, thiền lặng trong sự thô mộc, thi hóa thế gian đang ngập tràn lạc thú và bạo hành,… Và cho thế nhân đọc những dòng thi ca vàng óng mật ngữ và xôn xao thanh âm để phục sinh lại những mơ ước thánh thiện và tình yêu cao đẹp mà con người đã từng đánh mất khi bước ra khỏi vườn Eden ngày nào.

Dường như ông đã từng ngồi bên con rùa nhỏ và tìm thấy “lạc thư”, để rồi đi tu, làm thơ, hoàn tục và sống trong cội quán café Hoa Vàng của mình.

Vào non soi nguyệt tầm rùa

Đọc trên mai nhỏ xanh tờ lạc thư

Thả rùa lại đứng ưu tư

Muốn qua hang động sống như nguyệt rùa

Những ai đã từng nghe danh tác “Đưa em tìm động hoa vàng” của nhạc sĩ Phạm Duy sẽ chẳng ngờ rằng người làm nên ca từ bản nhạc này lại giống như một lão nông ngồi bên tường rào một quán cà phê nhỏ. Nhưng Phạm Thiên Thư là vậy, ông như một hiền sĩ ngồi bên lề của đời sống ta bà, lặng yên thi hóa mọi thứ, kinh Phật và tình trai gái, sự hài hước và châm ngôn,… Cười tít mắt, móm mém với hàm răng vàng vì khói thuốc, đôi chân ống cao ống thấp, ông nói về trường sinh học, nhân điện, rồi nói về điều tương đồng của ông với Nguyễn Du là có số lượng vợ ngang nhau ?! Tôi nắm tay ông và thấy ngạc nhiên khi lòng bàn tay mềm ấm, nhưng lưng bàn tay thì rất cứng cáp như lão nông. Hiểu ý, ông cười và giải thích: Bố tớ là võ sĩ, tớ học võ từ nhỏ nên tay chân sần sùi như vậy đây.

Tới đây, lòng chợt nhớ những câu thơ ngày xưa của ông:

Mùa xuân mặc lá trên ngàn

Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư

Động nam hoa có thiền sư

Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn

Ông có những câu thơ thật khó quên:

Đâu em có hay

Buổi chiều hôm nay

Ta châm điếu thuốc

Nhớ dài ngón tay

Tôi là người quan tâm đến văn giới miền Nam trước 1975 nên hay hỏi ông nhiều lần, nhưng ông nói: Tớ có biết ai đâu. Lúc ấy tớ ở trong chùa … mà ! Hèn chi vậy nên ông cứ thủng thẳng lập một cõi thi ca riêng: trong vắt, trữ tình, đậm chất Thiền ca giữa một thời mịt mùng đạn bom và văn hóa hippy…

Vào hang núi nhập niết bàn

Tinh anh nở đóa hoa vàng cửa khe

Mai sau thí chủ nào nghe

Tìm lên xin hỏi một bè mây xanh

“Bè mây xanh” của ông là một bè thơ đồ sộ mà người đời nếu có cơ duyên chắc sẽ ngộ ra nhiều điều để sống than thản, vô ưu… Bởi lẽ ở đấy, vẻ đẹp thanh tân và trong sáng chiếm hữu không gian thơ ông.

Song không phải thơ ông không có những câu thơ bạo liệt:

Con tàu than hú ga đêm

Cây cao bóng lẻ buồn trên hồ cầm

Anh còn bạo động thâm tâm

Sương trên vai tượng buồn câm nín chiều

… Anh ngồi qua một đêm nay     

Đêm trên hầm rượu với cây kèn đồng

Thế nhưng đó chỉ là một vùng tiểu khí hậu nhỏ nhoi, thất thường, hiếm hoi. Tràn lên trong thơ ông vẫn là khí hậu dịu dàng, trang nhã, tình cảm mà vẫn đậm chất Phật ca.

Có con cá mại cờ xanh

Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân

Nửa dòng cá gặp phù vân

Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi

Người đời nói khá nhiều về thơ tình của ông, song đọc kỹ mới thấy ông mượn tình yêu để nói về vẻ đẹp tại thế, về nỗi buồn quán trọ trần gian, về nỗi luyến ái và dứt bỏ thế gian để soi lại bản ngã chân tâm của mình:

Cánh rừng xanh những kiếp mơ

Hồn anh hóa bướm vật vờ bay lên

Nghe trong tiếng suối dịu huyền

Con tim chín úa như viền trăng thu

Anh ca chúc tụng sương mù

Quyện theo hương tóc bay vào ngàn năm

Mượn em tơ khói tơ tằm

Đem về dệt lại võng nằm tịch nhiên

Bởi vậy tôi cứ thấy “người yêu” trong thơ của ông dường như là một sinh mệnh mà duyên cớ nhân gian cho ông gặp để ông trải nghiệm mà nhận ra những “chính yếu” của lẽ đời. Hình tượng thơ “người yêu” trong thơ ông đẹp một cách lạ lùng, có khả năng sinh hóa được nhân tâm khổ lụy.

Dáng em lau gầy

Vươn từ khổ đế

Mỉm cười thơ ngây

Trang nghiêm cõi này

Ông làm thơ theo cách của môt cánh chim ngẫu nhiên bay giữa cõi nhân gian, rồi ngẫu nhiên nhặt nhạnh những vàng hoa mật ngọt để dâng tặng cho đời:

Lên non kiếm hạt tơ hồng

Đập ra chợt thấy đôi dòng hạc bay

Thế mà, vài năm gần đây, ông lại hay xuất hiện trên mặt báo theo kiểu phỏng vấn, với cơ man lời lẽ tung hô, kỷ lục… Tôi đọc mà cứ ngờ ngợ không biết hư thực ra sao… Vì cái cách nói đầy vẻ phô trương, nhiều nét “hàn lâm viện sĩ”, những điều hoàn toàn khác với một Phạm Thiên Thư ăn nói dân dã, ngăn ngắn, không đầu không đũa thường ngày mà tôi được biết. Cầm lòng chẳng đặng, tôi hỏi ông có biết và có đọc mấy bài báo về ông không ? Ông nói: Tớ thấy mấy anh chị ký giả đưa tới, tớ có đọc… Tôi hỏi thêm: Thầy thấy họ viết có đúng với Thầy trả lời khi họ phỏng vấn không ? Ông cười tít mắt: Họ thương tớ thì thêm bớt bóng bẩy cho vui mà, tớ có nói gì đâu mà họ viết cũng nhiều ra phết đấy ?! Rồi ông lại cười tít mắt.

Mỗi khi cảm thấy lòng bất định, tôi tới nhìn ông, và trò chuyện. Và theo bóng nắng, có khi ngồi bên này vệ đường, có khi qua bên kia mặt đường Hồng Lĩnh ở lưng khu Cư xá Bắc Hải để ngồi chơi. Nhiều lần ông nói với tôi bằng giọng Thái Bình quê ông: Tớ với cậu có thể “thông quan” được đấy, khi nào nằm ngủ, cứ kêu tớ, tớ truyền điện cho !

Trong cái ao ta bà Sài Gòn huyên náo, tôi ít khi có được nhiều phút giây để làm điều ông dặn. Đôi khi nhớ thì cũng lầm rầm “gọi” ông như ông đã dặn dò. Nhưng lúc ấy lại chỉ nhớ những câu thơ trong Kinh Hiền Ngu, Kinh Ngọc, Kinh Thơ… mà ông đã thi hoá, lòng lại thấy nhẹ nhõm chút ít. Lúc ấy không biết là do điện năng sinh học của ông truyền cho hay không, song chắc chắn rằng: chính năng lượng thi ca của ông đã mang đến cho tôi cảm giác thanh thản vô niệm ấy ! Không gì khác ngoài thi ca Phạm Thiên Thư !

Saigon, trước Tết Canh Dần 2010

Bài viết đã được đăng trên tạp chí Đất Quảng (số 73 (195) xuân Canh Dần 2010); báo Đà Nẵng cuối tuần (số ra ngày 2009); tạp chí Văn hóa, Nghệ thuật & Du lịch (số ra tháng 2009)

Read Full Post »


Tháng Giêng là tháng đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Ông sinh ngày 15-2-1835 (tức 18 tháng Giêng năm Ất Mùi) và mất vào ngày 5-2-1909 (tức 15 tháng Giêng năm Kỷ Dậu), thọ 75 tuổi. Như vậy tính đến xuân này ông đã mất chẵn 100 năm. Một trăm năm rời chốn trần gian nhiều mộng mị khoa cử và quan trường lận đận, nhưng 100 năm qua và chắc còn hơn nữa, những câu thơ của Yên Đỗ vẫn còn khiến nhiều người yêu thơ nước Việt mất ngủ.

1. Ngày nay khi nhắc đến thơ Nguyễn Khuyến, người ta liền nghĩ ngay đến chùm thơ mùa thu nổi tiếng của ông và dành cho ông một mỹ tự “nhà thơ của mùa thu”. Tính từ khi Dương Quảng Hàm viết cuốn “Quốc văn trích diễm” vào năm 1925, thơ văn cụ Yên Đỗ, đặc biệt với chùm ba bài thơ thu đã trân trọng hiện diện trên gần vài chục tập giáo khoa thư. Trong lịch sử giảng dạy và nghiên cứu văn chương Việt gần một thế kỷ qua, bao nhiêu bút mực đã dành cho ba bài thơ thu của ông, nhưng cũng ngần ấy năm chẳng thấy ai nói đến thứ tự trước sau của chùm thơ này, rằng Thu vịnh viết trước hay Thu điếu, hay Thu ẩm ? Nhà nghiên cứu Ngô Ngọc Ngũ Long trong chuyên khảo rất chất lượng “Thi hào Nguyễn Khuyến – đời và thơ” do Viện Văn học chủ trương được NXB Khoa học xã hội in năm 1992 trong khi phân tích chùm thơ này đã lần lượt đi từng bài là Thu ẩm, rồi Thu điếu và cuối cùng là Thu vịnh. Ông không hề nói vì sao lại theo thứ tự như vậy. Trong khi phần lớn các cuốn SGK, hoặc các thi tuyển cho học sinh hay sinh viên học thì đều sắp xếp theo thứ tự Thu vịnh – Thu điếu – Thu ẩm, song cũng không một tác giả nào nói rõ cơ sở nào họ lại sắp xếp như vậy. Đó là một câu hỏi giản dị đã tồn tại gần một thế kỷ qua (?)

Theo nhận định của nhà thơ Xuân Diệu trong cuốn “Thơ văn Nguyễn Khuyến” in năm 1971, Thu vịnh được sáng tác vào khoảng 1883 – 1884, nghĩa là trước khi nhà thơ cáo quan về quê. Cơ sở để nhà thơ khẳng định điều này là câu kết của bài thơ “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” đã thể hiện rõ ý nghĩ hổ thẹn của ông quan Nguyễn Khuyến trước Đào Uyên Minh khi mình vẫn còn vướng phải vòng lợi danh nơi chốn quan trường.

Nhìn trên tổng thể cả ba bài thơ, về bút pháp, về thi cảm, về ngôn từ, chúng ta có thể nhận thấy ba bài thơ thu này làm ở những thời điểm cách xa nhau, và tất nhiên ở những cách thế khác nhau. Bởi vậy mỗi bài thơ có một nỗi niềm, một tâm trạng riêng. Và nếu nhìn trên trục thời gian, có thế thấy rõ Thu vịnh là tâm cảm của một vị quan trước vòm nha môn đã muốn rũ áo từ quan. Cái cách ngước mắt nhìn trời mấy tầng, rồi hạ dần đôi mắt xuống “cần trúc lơ phơ”, “nước biếc”, “giậu hoa” rồi chìm dần vào tâm trạng bên trong “nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” thể hiện rõ thi cảm của một nho gia đã chán ngấy hiện trạng của mình. Ngôn từ bài thơ đầy những thi liệu bác học: trời xanh mấy từng, cần trúc, nước biếc, khói phủ, song thưa, hoa năm ngoái, ông Đào…

Đến Thu điếu, rồi Thu ẩm, hệ thống ngôn từ gần như dần triệt bỏ hết những chất liệu hàn lâm để lời lẽ “con dân” chiếm lĩnh tuyệt đối. Nhân vật trữ tình của Thu điếu là một ông già câu cá lạ kỳ dường như trầm mặc triền miên trong những ý nghĩa bất tận “không lời đáp” giữa cái tĩnh mịch nên thơ của làng quê nước Việt. Không biết ở đây cách thế người đi câu ở cái ao con Hà Nam có giống ông già ngồi trên bến phu Văn Lâu giữa kinh đô Huế vài năm sau không ?

Còn đến Thu ẩm, rõ ràng nhân vật là một lão nông say rượu. Không còn một chút cách thế, tâm trạng của vị quan ngày nào. Lão nông ấy uống rượu trong “gian nhà cỏ thấp le te”, nhìn ra ngoài trời chỉ thấy hun hút đêm sâu. Thu ẩm có một thi pháp “nhòe” và dường như được sáng tác từ điểm nhìn của một người uống rượu, vì thế hiện thực của nhiều điểm thời gian khác nhau nhập vào làm một trong không gian bài thơ: câu 1 và 2 là đêm tối, rất tối; câu 3 là cảnh có thể nhìn thấy “màu khói nhạt” ở lưng giậu phất phơ; câu 4 lại cảnh đêm trăng (Làn ao lóng lánh bóng trăng loe). Câu 5 thì khác hoàn toàn: Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt. Đây rõ ràng không phải là câu thơ tả cảnh mà là câu hỏi bất giác của thi nhân, một tâm cảnh của người uống rượu. Câu hỏi ấy không lời đáp. Và nó cũng bất thường như “mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”.

Từ điểm mở đầu thi triển bài thơ “trời thu xanh ngắt” đến “ao thu lạnh lẽo”, cuối cùng đến “năm gian nhà cỏ thấp le te”, lần lượt Thu vịnh – Thu điếu – Thu ẩm đã thể hiện được thi cảm cũng như nỗi niềm của ba trạng thái, ba cách thế khác nhau theo lộ trình từ quan quy ẩn để thành một ông già “nhà quê” chân yếu mắt mờ thực sự. Tuy vậy nó vẫn thống nhất trong hình tượng trữ tình một thi nhân giàu cảm xúc trước quê hương và đau đáu ưu tư trước thời cuộc khó bề xoay chuyển.

2. Khi giảng dạy ba bài thơ thu, người truyền giáo văn chương ít nhiều làm rõ được vẻ đẹp mùa thu nước Việt, tâm cảm ưu phiền của nhà thơ và bút pháp tả cảnh ngụ tình kiệt xuất của thi nhân Nguyễn Khuyến. Song họ đã ít để tâm đến chi tiết đắt giá hơn cả trong ba bài thơ trên, đó là hình ảnh “trời xanh”. Đây là chi tiết đã xuất hiện đều đặn ở cả ba bài thơ, nhưng ở những vị trí khác nhau: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” (Câu 1 trong Thu vịnh), “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Câu 5 trong Thu điếu), “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Câu 5 trong Thu  ẩm)

Vì quen sử dụng phương pháp luận “con quạ” với kỹ năng “rỉa mồi”, theo nghĩa đen của từ “phân tích”, các nhà giải phẫu tác phẩm văn chương đã “chiết” chi tiết “trời xanh” này ra và gán cho nó nhiều nghĩa “ước lệ” theo cách của văn hóa học hoặc của khoa tư biện cảm tính, trừ cách phân tích tác phẩm trong sự toàn vẹn của văn bản và liên văn bản. Từ đấy, màu trời trong thơ cụ Yên Đỗ ở trên theo họ là biểu trưng cho vẻ đẹp nên thơ diễm tình của miền quê nước Việt, là màu xanh hi vọng, là biểu hiện cho sự sống nước Việt,… là rất nhiều nghĩa, chỉ trừ nghĩa mà cụ Nguyễn Khuyến gửi gắm qua hình ảnh thơ đặc biệt này (?)

Trong trường hợp này, cũng ít ai nghĩ rằng trong cảm quan thị giác của người Việt, màu “xanh ngắt” mà cụ Yên Đỗ “lặp” đến cả ba lần ở cả ba bài thơ có thật là màu mà người Việt chúng ta yêu thích không ? Thực sự là không ! Và một người mang đậm trong mình những tinh tuý của hồn Việt, văn hóa Việt như cụ Yên Đỗ sao lại lấy màu “xanh ngắt” để làm “đẹp” cho bầu trời nước Việt ? Chắc câu trả lời cũng không !

Khi lần giở lại tất thảy di cảo của cụ Yên Đỗ, nhất là soát xét gia tài thi ca trong đoạn đời quy cố hương ở vùng chiêm trũng Bình Lục cho đến tháng Giêng năm 1909, trước khi rời cõi tạm, chúng ta không còn thấy thi nhân ngước mặt nhìn trời trong các thi tác của ông nữa. Từ ngày “mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”, dường như “trời xanh” đã không còn là một ẩn mật trong ông, nỗi bận tậm về cõi đời, về sự xuất xử của nho gia cũng không còn hằn lên trí nghĩ của ông… Dường như hơi rét thế mệnh bao phủ chốn trần gian khiến ông co mình lại để tìm những nguồn vui bên những bờ giậu thưa, những cột khói đốt đồng, những giọt “rượu tường đền”, những vui buồn có thực trên mặt đất mà thôi !

Bởi vậy nên lần cuối ở Thu ẩm, nhà thơ đã hỏi “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”. Uống rượu trong “năm gian nhà cỏ thấp le te” giữa một “đêm sâu” bỗng nhiên từ tâm khảm ông, hình ảnh “trời xanh” lại chới với hiện lên như tra vấn. Và theo sau câu hỏi này là câu thơ đầy tâm trạng: “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”. Dường như câu thơ tiếp ứng liền liền này lại chính là hệ quả từ câu thơ ở trước vậy ?

GS. Trần Đình Sử trong tiểu luận “Con người trong sáng tác Nguyễn Khuyến” đã viết rất hay về quan niệm nghệ thuật trong thơ Nguyễn Khuyến như thế này: “…Nguyễn Khuyến đã nhận ra trạng thái thất hồn, trống rỗng, bất tài, vô vị của người đương thời… Nguyễn Khuyến là người đầu tiên nhận ra sự lỗi thời ấy trong thơ ông”. Cụ Tam Nguyên Yên Đỗ là một nho gia. Trong mấy ngàn năm nay, Trời là đấng tối cao, người nắm giữ then máy tạo hóa, là kẻ chứng giám và minh bạch các giá trị, các chân lý cho chốn bụi hồng. Bởi vậy nên chúng ta không lạ gì khi Bao Chửng bên Tàu, người phán xử công minh các vụ án được vua Tống cho nhận tước vị Bao Công lại được nhân dân phong tặng danh hiệu Bao Thanh Thiên !

Cụ Yên Đỗ là người thông hiểu thi thư thánh hiền, cụ đã gò mình vào con đường khoa cử để thành danh và cụ ra làm quan với vốn liếng rất cơ bản như vậy để tham gia chính sự. Thế nhưng, thời cuộc đã đổi thay, tiếng súng xâm lăng của thực dân Pháp là từ trời Tây đưa tới, triều đình nhà Nguyễn đã như một con ngựa già lụ khụ trên dòng lịch sử, những lý thuyết của nho gia nghìn năm trước đấy giờ đây đâu còn ý nghĩa gì trước thời đại mới, lý tưởng cũ đã hết thời, lý tưởng mới thì chưa tới… Rời chính trường về quê, mang danh phận kẻ sĩ, trong lòng đầy những hoài bão vì đời, vì nước, nhưng nghĩ cho cùng, nhà thơ vẫn thấy mình là một kẻ bất lực. Nỗi đau đớn tận cùng này hỏi ai bây giờ ?

Ông trời “xanh ngắt” đâu còn nơi là nương tựa cho con người nữa. Ông không đủ khả năng giải đáp chân lý, thay đổi nước non. Ông ta vô hồn, trống rỗng, bất tài, và tầm thường đến mức mày tao chi tớ với chúng sinh dưới trần:

Chót vót trên này có một tao

Mày xem tao có nói đâu nào ?

Da tao xanh ngắt pha đen trắng,

Chỉ tại dì Oa vá váy vào

(Trời nói)

Bởi vậy mới thấy rằng, hình ảnh “trời xanh” trở đi trở lại bất thường trong cùng một sắc độ “xanh ngắt” ở ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến được nói ở trên chỉ là thể hiện sự khủng hoảng lý tưởng trong con người nho gia của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ.

Đây cũng chính là điểm nhìn nghệ thuật của Nguyễn Khuyến khi ông triển khai tứ thơ, và cũng là cơ sở để người dạy văn xác định được lộ trình sáng tác trong “liên khúc” ba bài thơ thu, từ đó có thể nhận diện được các giá trị thẩm mỹ đích thực của các thi phẩm.

LÊ QUANG ĐỨC

 

Read Full Post »

Café và Em


Những suy nghĩ và cảm xúc về em cứ như một dòng sông cuộn chảy ào ạt thật khó mà diễn đạt đầy đủ ! Chắc có lẽ có quá nhiều buổi chiều yêu em: chiều Huế, chiều Đà Nẵng; và cũng có quá nhiều những sớm mai bên ly café đen nhánh màu tóc em, vừa thơm nồng hơi thở em, vừa đắng đót chút ngang trái phận người,…

Chưa bao giờ anh cảm thấy ly café có một sắc màu và hương vị kỳ lạ như lúc này, chưa bao giờ nó trĩu nặng một ý nghĩa lớn lao như vậy. Ly café thật khác lạ trong những giây phút yêu thương em, dù cả đời trước đây anh vẫn nâng nó trên tay mỗi ngày. Có lẽ bởi vì giờ đây anh nhìn thấy nó trộn lẫn đầy đủ cả vị ngọt ngào lẫn cay đắng; cả màu đen đêm tối lẫn màu vàng mật óng… Nó bắt đầu từ đâu đó phía quê nhà được mang về phố thị miền xuôi. Nó ấm trên tay anh khi ngày bắt đầu. Nó lanh canh va chạm khi môi người không còn bình yên. Nó là chứng nhân của tình yêu lạ kỳ. Nồng nàn mà giản dị, khác biệt mà trùng phùng duyên nợ, ở đâu đó thật xa nhưng lại có trên tay mỗi ngày, đã thấm vào gan ruột mà vẫn còn mặn nồng trên đầu môi, đã uống bao nhiêu ngày mà vẫn thấy chưa đủ, vừa sợ mất ngủ, vừa sợ cay đắng mà vẫn để nó đi theo từng ngày…

Nó như Em, như Anh, như Tình yêu vậy ! Và nếu cho anh là Chúa tái sinh, anh sẽ dựng một tôn giáo có tên là Tình yêu, xây một thánh đường bằng bóng tối dịu êm và nước thánh là ly café đen nhánh đậm mùi hương tóc của em,…

Nhưng em biết không, anh không thể là Chúa, anh chỉ như một đứa trẻ con lông bông yêu thương em và mong em cho anh: mỗi sáng đem đến một nụ cười, mỗi trưa được nắm lấy bàn tay em, mỗi chiều hôn em đến tan bóng mặt trời, và mỗi đêm ôm em mà ngủ đến sớm mai,… Bởi vậy em cứ như một giấc mơ giữa ngày, đâu đó trên những con phố, giữa những hàng cây, trên những vì sao xa xôi, nằm như những hòn sỏi trên mặt đường, rì rào như sóng biển ngoài xa, lặng lẽ trong những con chữ trước mặt,… Gần gũi đấy mà vẫn cứ xa xôi; lặng lẽ đấy mà vẫn cuộn trào giông bão !

LÊ QUANG ĐỨC

Read Full Post »


Bản mệnh của tôi đặt ở cung “thiên di”, vì thế ngay khi khép cửa căn phòng lặng lẽ của mình, tâm tưởng tôi vẫn trôi dạt đâu đó ở những đường chân trời. Trong ý nghĩ của tôi, hình ảnh con người hiện lên là hình ảnh của những loài chim di trú. Giờ đây trong những lúc đặt để thân tâm mình nơi phố thị ồn ào, tôi vẫn ngước mắt lên để vọng tưởng đâu đó, để nhớ mông lung ai đó mà mình từng gặp trong đời. Cơn cớ đỏng đảnh của lòng khiến tôi cứ nghĩ, mặt đất nhân thế vừa rộng vừa hẹp này chỉ là những ô vuông mà cuộc đời mình đã may mắn qua lại trên đó mỗi ngày theo sự sắp xếp tình cờ nào đó của số phận.

Và tôi đã cố gắng di chuyển cho hết qua những ô vuông ấy, để được nhìn ngắm, gặp gỡ, được học hành và viết,… Nguyễn Tuân ngày xưa đã thèm đi để “thay thực đơn cho giác quan”. Tôi ngày nay được đi vì không một thổ thần bổn xứ nào chấp nhận kẻ lông bông cứ ở một nơi mà lòng thì trăm ngả đi về. Từ đấy trên những hành trình mải mê như sông về phía trước, đi là cách may mắn để tôi thoát ra được những ràng buộc hệ luỵ của đời sống hằng thường, để sống với những giấc mơ giữa ngày của mình trong đời, để được gặp gỡ mọi người trên khắp dặm dài nước Việt, để được học và nhớ,… để lòng mình luôn hoài thai những ngọn gió ký ức miên man thổi qua, để nghe sợi tóc bạc trên đầu thì thào xanh lại.

Những năm học đại học ở Huế, cứ vài ba tháng là tôi “mất tích” vài ngày trên lớp học để đi. Luận đề học Văn của tôi ngày ấy là Đi + Đọc + Viết. Và thế là với cây bút, cuốn sổ trong tay, tôi lang thang vẹt mòn những con phố Huế, phố Hà, phố Hội, đến hầu hết những cửa sông của miền Trung, ra tận tới làng Cảnh Dương dưới chân Ròn (Quảng Bình) chỉ vì để xem cái làng đã tả trong bài học “Cảnh Dương ngày nay” ở SGK thời tiểu học có đúng không, đi bộ dọc con đường được lát những viên đá trên cát mà những cặp vợ chồng mới cưới đã hiến tặng coi như là một thứ “hiện vật” thay thế tiền cheo đóng góp cho làng… Ngày ấy thèm đi đến mức, hai thằng bạn rủ nhau nhảy tàu chợ ra tận ga Vinh, xuống sân ga ngó quanh rồi lại nhảy tàu trở vô lại Huế,…

Những chuyến đi dài, những chuyến giang hồ vặt nhiều vô kể đã cho tôi bao nhiêu là “bài học”. Ra thủ đô, khi ngồi ở phố cà phê Hàng Hành lại gặp một ông già Hà Nội cũng mê đi. Ông này mê đến mức bán hết đồ gia bảo của cụ ông rồi lang thang tới Đông Đức, tới Tiệp để ngó xem cái thứ dân bô-hê-miêng trời Âu có thiệt không, nó sống ra sao rồi về… Hai ông bạn vong niên giữa đường đèo nhau trên chiếc xe đạp mi-sa nhỏ xíu lên Mỹ Đình để xem thằng Iran đá bóng với người Việt Nam thế nào. Ở đấy tôi “ngộ” ra một điều: tôi có thể mê bóng đá, một môn thể thao mà trước đây khi đọc chút Thiền học và văn hóa cổ Hy – La, tôi thấy nó thật “man rợ” khi mấy nghìn người cứ ngồi thản nhiên xem, hò hét để 22 “nhân mạng” đồng loại của mình đổ mồ hôi, sôi máu lên mà tranh nhau đưa trái bóng vào lưới tựa như một đấu trường La Mã. Chỉ vì mê sư phụ “xê dịch” này nên tin luôn mấy lời này: bóng đá giúp người ta lấy lại tinh thần tranh đấu, một cuộc tranh đấu sòng phẳng minh bạch giữa ba quân thiên hạ và luôn biết cùng đồng đội mà đi lên và chiến thắng; bóng đá không cho phép người ta lùi bước, ý chí bóng đá gần với ý chí thiền học, hiểu chưa ? Tin vậy, chứ kiểu tư duy “tung – hoành” của người dọc ngang như vậy thì khó mà cảm được, nhưng quả là một bài học đã làm rung rinh nhiều ý niệm mà mình có được trên đường du hành…

Những ngày ở Đà Nẵng, nơi những con đường thiếu cây xanh quang hợp nên càng khát đi. Năm 1998, trong chuyến đi Lào Cai – Trung Quốc, đoàn công tác gồm 10 giáo viên giỏi nhất đi làm nhiệm vụ của Sở GD-ĐT không hẹn mà lại tập trung hầu hết những người mang máu “giang hồ” xê dịch. Thế là giữa cái nắng hanh vàng xứ bắc vừa tan sương xuân, chuyến tàu ngược Tây Bắc đến Lào Cai vừa vào ga thì gần 2/3 người trong đoàn đã “ra đi”, í ới mãi không được. Chỉ đến khi Đoàn làm việc với sở tại thì gần 10 người kia mới có mặt đúng giờ. Và ngoài giờ thì đủ mọi chuyện để kể: café Cốc Lếu nhìn hai ngọn nước Trung Hoa đổ từ Vân Nam về thành đầu nguồn sông Đà – nước Việt, rượu ngô Bát Xát, Đền Thượng, cửa Hà Khẩu nơi Phạm Duy viết ca khúc nổi tiếng “Bên cầu biên giới” trước khi rời núi rừng về lại Hà thành,… Trập trùng núi, sương, hơi rượu ngô Bát Xát, rượu táo Mèo, cơm lam, rồi Sa Pa mù sương, chợ tình đỏ thắm áo quần thổ cẩm của một rừng người Mèo, Dao, Thái, Sán Dìu,đi chợ phiên và họp bạn, mọi thứ bồng bềnh, mênh mang… Cả Đoàn gần như bị “sa” vào bẫy của vẻ đẹp Tây Bắc đến mức Trưởng đoàn cứ sợ bị lỡ việc… Vì thế sau khi về Đà thành, tay trưởng đoàn đánh giá chuyên môn thì rất tốt, nhưng rút kinh nghiệm lần sau phải tìm hiểu kỹ chuyện có mê đi trước khi thành lập Đoàn !?

Mê đi đến mức, tôi đưa cả “đại bản doanh” đang yên ấm từ Trung vào giữa Sài Gòn, để từ đây có thể “lấn chiếm” và ngang dọc vùng kinh rạch, miệt vườn phương Nam mà mình đã nhiều lần nghe cụ Đoàn Giỏi, cụ Sơn Nam kể qua sách vở. Chuyện này cũng làm ồn ào quê nhà một đoạn và cũng phải tìm ra vài ba lý do hợp lẽ nào đó để thưa chuyện với hai bên gia đình. Vào Sài Gòn tôi mới biết người phương Nam tấp nập đi hơn là mình tưởng, họ đi không cần tay nải kỹ càng như người miền Trung. Và cũng ở đây, tôi mới thấy thèm nhớ những đám mây bông trắng nõn vùng duyên hải miền Trung. Suốt một năm rồi ngày nào tôi cũng ngước mắt nhìn trời xem thử có nó không và nghĩ rằng, hình như nắng nôi phương nam và độ ẩm quá cao của vùng sông nước đã khiến ở đây thiếu nhưng cây bông “đùn sóng” trắng xóa trong thơ Thôi Hiệu. Người Sài Gòn ai cũng rất bận, nhưng chỉ duy nhất những đám mây màu xám tro là rảnh rang lang thang dòm ngó và giỡn đùa với người mặt đất khi ba hồi vô cớ cứ ném mưa xuống chỗ nào coi được, khiến trời đang nắng to bỗng đổ xoà những nước là nước như người ta tưới cây cho một quận. Ra khỏi nơi ấy vài trăm mét lại thấy trời ráo hoảnh…

Đi muôn nơi và nhớ một nơi. Đi muôn ngả đường để thấy chỗ cuối con đường bao giờ cũng là nhà mình, làng mình. Nhà mình thì cũng cột cũng kèo, cũng ngói cũng cây vườn như người ta, làng mình thì cũng nhỏ cũng cơ hàn,… nhưng đâu đó trong nhà, trong làng có một thứ khó gọi tên ngọt ngào mà con người ta trong thăm thẳm của đêm, trong chập chờn mơ ngủ giữa ngày mới biết rõ nó là cái gì. Thật khó gọi tên, thật khó cắt nghĩa, chỉ biết nó lẫn đâu đó trong những ngọn gió qua đường, buộc chặt ta trên những chuyến xe đời gian nan, để nơi đường chân trời lẻ bóng, ta vẫn thấy ấm áp tin rằng nước Việt dặm dài mà thân thuộc, quê nhà xa mà gần, và người ở bốn phương trời như cha mẹ anh em của ta…

Với những cuộc đời vừa trôi vừa trổ bông của kẻ yêu thú “xê dịch”, đi là để trở về, đi để có ngày hành hương… Người không đi khó ai hiểu rõ được điều giản dị này !

LÊ QUANG ĐỨC

(Đã đăng trên báo Đà Nẵng cuối tuần, số 3518, số ra Chủ nhật 11/01/2009 (16 tháng 12 Mậu Tý); tạp chí Văn hóa nghệ thuật & du lịch, số ra tháng 01/2009)

Read Full Post »